CHIA SẺ

minh họa

Buông lỏng chấp ngã đem đến cho ta tâm an bình, và với nó không gì có thể tổn hại được chúng ta. Ngay cả nếu có đau khổ, thái độ đúng sẽ giúp chúng ta chịu đựng phiền não một cách nhẹ nhàng hơn. Để được ích lợi từ những kỹ thuật thiền quán nhằm làm mạnh tâm, ngay lúc khởi đầu, điều quan trọng là nghe những lời chỉ dạy mà không có những định kiến hay phán đoán. Nếu chúng ta tìm điều gì đó có thể hiểu và có ý nghĩa cho nhu cầu của mình, chúng ta cần hướng mọi ý định, cảm nghĩ vào việc đem kỹ thuật vào trong thực hành, không ngần ngại, trông chờ hay nghi ngờ. Niềm tin là tác nhân của sức mạnh chữa lành. Đơn giản bằng việc mở rộng tâm, chúng ta sẽ ngạc nhiên bởi sức mạnh bên trong của chính ta.

Rèn luyện tâm thức khiến phát triển sự nồng ấm của tinh thần và có thể dẫn chúng ta đến một nhận biết rộng mở và linh hoạt hơn. Mặc dù không phải mọi kỹ thuật tôi hướng dẫn ở đây đều nguyên dạng như trong kinh điển, nhưng mọi đề nghị gợi ý đều đặt nền trên những nguyên lý và trí huệ của đạo Phật. Mục đích nhằm đem lại sức mạnh an bình nội tại bằng việc phát triển những phẩm tính như nhận thức tích cực, sự khéo léo (thiện xảo) chuyển mọi sự xảy đến cho chúng ta thành sự hỗ trợ thay vì là một chướng ngại.

Phẩm tính quan trọng khác nữa là sự sùng tín, rất cần thiết trong bất kỳ việc thực hành tâm linh nào, tuy vậy không cần thiết phải mang ý nghĩa tôn giáo. Với những ai thích một tiếp cận thế tục hơn, sự sùng tín đơn giản có nghĩa là một sự trau dồi trí huệ nội tại và một sự cảm kích sâu xa về chính chúng ta, về người khác và về thế giới nói chung. Cầu nguyện là cách mà một người thực hành tâm linh làm để dẫn năng lượng vào việc biểu lộ sùng tín hơn là hao phí năng lực đó trong những chuyện phiếm vô mục đích. Kiểu cầu nguyện thế tục là sự diễn đạt những cảm giác hạnh phúc hay hoan hỷ bằng ngôn ngữ của chính chúng ta, mà chúng ta có thể nói thầm hay lớn tiếng.

Với Phật tử Đại thừa, những ai quan tâm trong việc chuyển hóa những khó khăn và làm tan biến tự ngã, lòng bi mẫn được xem là công cụ chữa lành đặc biệt. Khi chúng ta đến với những người khác, sự chấp cứng bản ngã bắt đầu mềm dần. Mặc dù mục tiêu tối hậu của việc đào luyện tâm linh là thoát khỏi sự nương dựa vào bất cứ cái gì ngoài tâm, đạo Phật khuyên bảo rằng tham gia vào thế giới là một sự thực hành tích cực trên con đường chân thật. Điều này bao gồm việc phụng sự những người khác, tạo ra những cơ sở, những viện để giúp đỡ người khác, che chở, biếu tặng, cầu nguyện và tôn trọng. Thậm chí những gặp gỡ xã hội nhỏ nhặt của đời sống cũng có một lợi lạc mạnh mẽ khi chúng ta biết vui thích và tôn trọng bất cứ ai mình gặp. Ngài Shantideva viết:

Khi bạn nói, hãy nói với sự thanh thản, trong sáng,

thích hợp và thoải mái,

Không có tham dục và thù hận,

Với ngữ điệu dịu dàng và ôn hòa vừa phải.

Khi bạn nhìn, hãy nhìn với đôi mắt yêu thương và

trung thực, nghĩ rằng:

“Nhờ vào người này

Tôi sẽ trở thành toàn giác.”

Bằng cách để cho chúng ta lưu tâm chăm sóc, bình an và buông xả, thì những công việc và hoạt động hàng ngày, ngay cả đến hơi thở, cũng có thể trở thành một phần của việc thực hành chữa lành, và chúng ta sẽ đạt được sức mạnh một cách tự nhiên. Nếu chúng ta mở rộng với nó, đời sống bình thường của chúng ta sẽ chuyển thành một đời sống chữa lành. Bấy giờ, dù không chính thức ngồi thiền, cuộc sống chúng ta sẽ là sự thiền định trong hành động.

Phần lớn những bài tập trong cuốn sách này nhằm vào việc chuyển hóa những xúc cảm bằng việc nhận ra những vấn đề và đi từ tiêu cực đến tích cực. Một tiếp cận khác đi đến thiền định là vượt trên cả xấu lẫn tốt, bằng việc mở rộng chúng ta với những cảm nhận và kinh nghiệm tâm chúng ta đúng “như nó là”. Thật ra, thiền định nhằm vào sự chuyển hóa những vấn đề khó khăn được hiệu quả nhất khi nó bao gồm những cảm nghĩ tốt và sự rộng mở. Trước tiên, chúng ta tập trung, sau đó lúc kết thúc thời khóa công phu bằng buông xả và làm một với bất kỳ cái gì chúng ta đang kinh nghiệm.

Sau khi học một số những thiền định truyền thống và bài tập, chúng ta có thể khéo léo áp dụng những phương thuốc riêng của mình trong những vấn đề hàng ngày. Cái ý niệm “tôi” sẽ mềm dẻo nhiều hơn ta nghĩ. Chúng ta có thể thí nghiệm và học cách đùa bỡn hơn, ít chú tâm vào viễn cảnh tiền đồ của mình. Chẳng hạn, khi một vấn đề có vẻ nghiêm trọng, chúng ta có thể tìm thấy sự giảm nhẹ bằng việc nhận ra một cái gì hài hước trong đó. Hoặc nếu dưới áp lực của công việc, chúng ta có thể cảm thấy thư giãn và thông thoáng hơn. Vì ngôn từ có sức mạnh lớn, chúng ta có thể tự nhủ “áp lực vẫn còn đó, nhưng tôi cảm thấy hoàn toàn thoải mái.” Chúng ta có thể nhận biết hơi thở của mình trong cách thư giãn và chú ý cảm nhận khoảng trống và không khí quanh ta, và trong cách này chúng ta thực sự ít bị áp lực và được nhiều khoảng không hơn.

Khi cảm thấy phiền não quá mạnh, một số người thấy ích lợi khi thực hành sự rộng mở hơn là cố gắng chuyển hóa khó khăn. Hòa nhập vào sự rộng mở rỗng rang sẽ được thảo luận ở chương kế tiếp, nhưng nó sẽ không làm ngạc nhiên bất cứ ai vì cái nguyên lý đàng sau sự tiếp cận này là buông bỏ tự ngã.

Nếu có người rớt xuống biển mà không biết bơi, người đó sẽ nắm chặt nước và sẽ chìm như một tảng đá. Một người bơi giỏi vì đã được rèn luyện, biết cách buông lỏng và hòa nhập làm một với đại dương bao la. Tu hành giống như học bơi và cần có một số hướng dẫn khi bắt đầu. Tu tâm cũng cùng một cách như vậy, đó là phần còn lại của quyển sách này.

Tulku Thondup Rinpoche

Việt dịch: Tuệ Pháp

Trích: Năng lực chữa lành của Tâm – Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, Hà Nội.