CHIA SẺ

univers-de-bouddhaVào đề

Lý thuyết vật lý lượng tử chủ yếu phát triển bởi Niels Bohr và Max Planck mô tả thế giới vô cùng nhỏ, trong khi lý thuyết tương đối tổng quát trình bày bởi Albert Einstein mô tả thế giới vô cùng lớn. Hai lý thuyết lớn này đã đảo lộn vật lý cổ điển xác định (déterministe) và được đưa ra gần như cùng một lúc vào đầu thế kỷ 20. Chúng đã thay đổi hoàn toàn quan niệm của chúng ta về thế giới và dẫn tới một đảo lộn ý tưởng phát xuất từ vật lý học Newton cổ điển duy vật, cũng như một thay đổi hoàn toàn hệ hình (paradigme).

Một số khía cạnh bất ngờ của vật lý lượng tử cho phép nhận ra dần những điểm tương đồng giữa giáo lý đạo Phật và cách tiếp cận mới này của vật lý. Nhiều nhà vật lý trong những năm 1970 đã nhận thấy những kết nối tinh tế này và những sự trùng hợp gây ấn tượng giữa vật lý lượng tử và các ý tưởng cơ bản của nền tâm linh Đông phương (D. Harrisson, F. Capra, W. Pauli). Mục đích của bài này không phải là để trình bày một bài học đầy đủ về vật lý, mà là để chứng tỏ làm sao hai cách tiếp cận, có vẻ rất khác biệt ngay từ ban đầu, có thể hội tụ về cùng một ý nghĩa chung. Đây có lẽ là một dấu hiệu cho biết rằng chúng ta rất có thể đang tiếp cận một cái gì phổ quát và căn bản.

Đối với một người Tây phương lý luận theo Descartes và đào tạo theo khoa học, hiểu biết và chấp nhận ngay một số khía cạnh của triết học Phật giáo không phải là một điều dễ dàng. Tuy nhiên, với một chút kiên nhẫn, người ta sẽ nhận ra ngay giá trị của những nguyên tắc đó đối với xã hội hiện đại đang bị đè nặng bởi stress và mất dần những chuẩn mực tâm linh. Một mặt khác, đối với một nhà vật lý học cổ điển, từ bỏ khía cạnh vật chất và yên ổn của vật lý xác định không phải là một điều dễ dàng. Bởi vì, mặc dù đã lỗi thời, nhưng nó cũng đem lại một khuôn khổ khái niệm vững vàng và dễ đạt được để giải thích “sự thực” xung quanh bằng cảm giác thông thường và vật chất.

Vật lý lượng tử

Chúng ta sẽ nhắc lại một vài khái niệm và làm tỏ những điểm tương tự giữa hai cách tiếp cận đó. Chúng ta hãy trở về vật lý (hay cơ học) lượng tử, và tránh đi vào những công thức toán học phức tạp. Như chúng ta đã thấy, nó mô tả hành vi của các “đối tượng” hạ nguyên tử, tức là với kích thước nhỏ hơn một trăm ngàn lần so với một nguyên tử (0,1 phần tỷ của một mét) và bao gồm một lượng tử năng lượng được cung cấp từng gói (hay quanta) và không một cách liên tục như người ta nghĩ trước kia.

Như vậy, nó đưa vào khái niệm căn bản lượng tử hành động “h”, là cơ sở của lý luận. Đó là một lý thuyết ad học, rất thuận tiện cho sự tính toán, cực kỳ chính xác, hoàn toàn không có biến ẩn, nhưng không mang lại giải thích lý do tại sao và thế nào của sự vật. Cách vận hành này của vật chất ở mức vi mô đi ngược hoàn toàn với trực giác con người và không phù hợp chút nào với những gì chúng ta có thể nhận thấy trong thế giới vĩ mô mà chúng ta đang sống. Một phiến đá đập tan ra cuối cùng sẽ không đưa tới những mảnh vụn bé xíu, mà một “cái gì khác” mà chúng ta sẽ đề cập tới sau. Rất nhiều thí nghiệm khoa học thực hiện từ hơn một thế kỷ nay trên toàn cầu đã chứng minh tầm giá trị của những mô hình đó, và đến tận bây giờ chưa có một thí nghiệm nào phủ định lý thuyết.

Chúng ta lại còn có thêm, với điện động học lượng tử (électrodynamique quantique), là một ngành của mô hình tiêu chuẩn các hạt cơ bản, một tiên đoán lý thuyết đạt tới 9 con số sau dấu phẩy và luôn luôn được kiểm chứng bằng thí nghiệm. Đến nay chưa một lý thuyết khoa học nào đạt được độ chính xác như vậy, điều đó chứng tỏ hiệu quả mô tả “sự thật” của nó và phải được đánh giá trong suy tư như một luận cứ vững chắc. Những bài tính đó cần dùng những dụng cụ toán học rất phức tạp, khó lòng giải thích nếu không được đào tạo trước, do trình độ lập thể rất cao. Dẫu sao, điều đó vận hành tốt, dù rất ít người trên thế giới có khả năng giải thích tại sao.

Bằng chứng được đem lại trong đời sống thường nhật với những vật dụng mà chúng ta dùng đều đặn (laser, vi bán dẫn, GPS), hoạt động nhờ những ứng dụng thực hành của lý thuyết này. Ánh sáng laser là một ánh sáng “kết hợp” lấy nguồn trực tiếp từ vật lý lượng tử.

Những điểm gặp gỡ

Điểm gặp gỡ đầu tiên đáng được nhấn mạnh tới chắc hẳn là sự không phân chia giữa các vật thể và các sinh vật (sự không có thực thể của các hiện tượng), là điểm nòng cốt trong đạo Phật. Tất cả đều liên kết và lệ thuộc vào nhau, và cái ta chỉ là một ảo tưởng. Điểm này chính là sự không thể tách rời nhau và không ngụ ở một nơi nào của cơ học lượng tử. Khi hai quang tử (hạt ánh sáng) đồng thời xuất hiện và tách rời khỏi nhau 180 độ, chúng sẽ giữ một mối “liên hệ tức thì”, ngay cả khi rất xa nhau. Đo lường trên một hạt sẽ lập tức tác động lên hạt kia (trong khi không có gì có thể đi nhanh hơn tốc độ của ánh sáng, tức là 300000km/s), dường như hai hạt chỉ thành như một thực thể duy nhất. Hiện tượng đó được biết dưới tên là sự đan díu lượng tử (intrication quantique) và đã được thí nghiệm bởi Alain Aspect tại Orsay. Chính Einstein cũng đã nói: “Người ta phải nhìn vũ trụ như một tổng thể”. Dĩ nhiên người ta chưa giải thích được một cách đơn giản hiện tượng lạ lùng này, tuy nó có thực sự và đã được dùng trong mật mã học (cryptographie) lượng tử.

Khái niệm thứ nhì là vô thường mà các Phật tử đã hoàn toàn hội nhập trong cuộc sống thường nhật, nhưng thường bị “bỏ quên” bởi những người Tây phương. Điều đó rất tiếc đã đem lại nhiều thất vọng và khổ đau, vì niềm tin ở sự thường tồn của sự vật có thể bị chấn động mạnh mẽ khi mà điều người ta tưởng là bất biến thực ra luôn thay đổi một cách tự nhiên. Vũ trụ học hiện đại đã hoàn toàn tiếp nhận được sự bất ổn định của sự vật, bằng cách tỏ rõ rằng trong vũ trụ tất cả đều chuyển động và thay đổi không ngừng ở mức độ thiên hà, hệ mặt trời hoặc trái đất. Ở mức độ vật lý lượng tử, điều đó có thể thể hiện bằng nguyên lý bất định (principe d’indétermination) của Heisenberg, tức là người ta không thể nào biết cùng một lúc tốc độ và vị trí của một hạt hạ nguyên tử, và trên mặt bản thể cả hai đều thay đổi trong mỗi thời điểm.

Một khía cạnh lý thú nữa là sự thiếu hiểu biết về bản chất thực sự của sự vật và tâm thức. Sự tìm kiếm nó đã được hướng dẫn bởi các vị thầy trong Phật giáo, nhằm dẫn tới sự giác ngộ và trí tuệ vẹn toàn. “Sự vật không thực sự như người ta tưởng” và vật lý lượng tử diễn giải là ở mức độ vi tế nhất của vật chất, các yếu tố nhỏ nhất xuất hiện hoặc như là sóng, hoặc như là hạt (nhị nguyên sóng-hạt). Vật lý lượng tử mô tả vẻ nghịch lý này dưới hình thức của một phương trình toán học phức tạp 6 chiều (hàm sóng Ψ của Schrödinger).

Thực tế trong chiều sâu của vật chất, ở mức độ cơ bản nhất của nó, rất khác với những điều chúng ta quen nhận thức trong đời sống hàng ngày. Thật vậy sự vật có vẻ “cứng rắn, sờ nắm” được trong đời sống thường nhật và không có vẻ như một sóng hay một hạt. Có một sự sụp đổ của gói sóng Ψ giải thích hiện tượng decoherence lượng tử khi người ta đi từ vi mô tới vĩ mô và dẫn tới sự nhất quán của thế giới hàng ngày. Mặc dù chính các nguyên tử cũng chỉ chủ yếu là một khoảng trống giữa hạt nhân và các electron (cũng như một hạt cát nhỏ trong một sân vận động). Đứng ở bình diện con người, chúng ta chủ yếu cảm thấy ảnh hưởng của lực đẩy điện từ giữa các phân tử, và chính điều đó mang lại cho chúng ta cảm tưởng rằng vật chất “cứng rắn và có thực”. Bằng cách đó vật chất thể hiện một khuynh hướng xảy ra hơn là một khuynh hướng có mặt.

Cũng vậy ý thức con người bình thường đóng một vai trò trong khái niệm này của thực tại, vì trong vật lý lượng tử, kết quả các thử nghiệm thay đổi tùy theo loại máy được chọn lựa để đo lường. Nói một cách khác, quan sát viên không đứng ở bên ngoài kinh nghiệm vật lý, mà ảnh hưởng đến kết quả do sự có mặt của mình, và là một phần trọn vẹn của hệ thống tham chiếu của vũ trụ. Vị ấy không thể đứng ngoài khung cấu hình. Theo quan điểm của Phật giáo, ý thức căn bản tinh nguyên không bị thay đổi bởi các trạng thái và quá trình tâm thức là nguyên lý cao nhất, cấu thành của vũ trụ, có mặt độc lập so với vật chất. Theo một số nhà thần kinh học, ý thức phải nảy mầm từ sự sống bắt đầu từ năng lượng và như vậy từ vật chất, để đem lại một ý nghĩa cho toàn thể thay vì không có gì. “Vật chất nhìn vật chất”. Điều này dẫn đến khái niệm tương quan của sự vật và chúng sinh, mà các Phật tử đều biết rõ và lấy làm cơ sở cho đường tu của họ. Hậu quả trước mắt là lòng từ bi và vị tha, cũng như sự chối từ dùng bạo lực đối với người khác, bởi vì người ta ai cũng mong muốn như người bên cạnh mình, đặc biệt là tránh được khổ đau. “Người khác chính là ta” là một phương châm có sức mạnh tuyệt đối có thể giúp ngăn cản các xung động hung dữ của con người. Các xung động đó, theo định nghĩa, khó lòng kiểm soát được, bởi vì chúng một phần ấn định bởi di truyền, và được thừa kế bởi những gen được lựa chọn cho sự tồn tại theo luật tiến hóa các loài vật của Darwin. Như vậy, chúng có thể giải thích lý do tại sao người ta có vẻ làm hại dễ dàng hơn là làm tốt cho người khác. Ở giai đoạn tiến hóa của chúng ta, chúng ta phải làm thế nào để có thể tự giải thoát khỏi ảnh hưởng tai hại này của gen. Tâm trí bình thường bừa bãi và phản ứng bất ngờ, phải có thể tư duy khác đi và được rèn luyện bằng thực hành thiền định đều đặn và liên tục, để mỗi ngày một cải thiện thêm và trở thành một con người tốt hơn.

Một số Phật tử như Matthieu Ricard đã cho thấy qua các thí nghiệm sử dụng MRI chức năng não, rằng thiền định tích cực và liên tục có thể thay đổi một số cấu trúc não và nhờ sự tăng trưởng mức độ hoạt động của các cấu trúc đó, thay đổi dài hạn hành vi của người thiền định. Như vậy tâm thức có khả năng tự học hỏi và tự sửa đổi, cũng như vật chất não bộ là nền tảng của nó. Xả và sự buông thả phải là câu trả lời cho sự lo lắng và stress quần thể hiện là đặc điểm của xã hội chúng ta. Chúng có thể hạn chế ảnh hưởng tai hại của các cảm xúc mâu thuẫn trên sự thăng bằng tâm lý của chúng ta.

Ánh sáng là một sóng điện từ và tốc độ của nó, mặc dù cực kỳ nhanh chóng, không thay đổi và có hạn. Điều này bao hàm một hệ quả quan trọng, nhận định rõ ràng bởi triết lý Phật giáo, tức là ảo tưởng. Thật vậy, khi chúng ta nhìn vào một vật gì hay một người nào đó, chúng ta bao giờ cũng nhìn thấy trong quá khứ, bởi vì phải mất thời gian ánh sáng mới truyền đi được từ nơi này đến nơi khác và mắt của chúng ta mới bắt được photon. Vì vậy, chúng ta có ảo giác nhìn thấy những ngôi sao trên bầu trời trong “thời gian thực” trong khi thật ra chúng có thể đã biến mất từ lâu. Những ảo tưởng được tăng cường bởi sự kiện là bộ não chúng ta diễn giải các tín hiệu đó và xây dựng lại hình ảnh của những gì nó có cảm tưởng thấy. Các nhà ảo thuật biết rất rõ những hiện tượng này và họ dùng chúng để cho chúng ta tin vào “một sự thực nào đó” mà họ muốn gây nên. Các ảo tưởng ngự trị và làm chủ trong thế giới chúng ta, và không có gì ít đáng tin cậy hơn một sự làm chứng trong một cuộc điều tra của cảnh sát, chẳng hạn. Chỉ bằng cách tập luyện liên tục tâm thức của chúng ta bằng thiền định, gia tăng dần dần sự tập trung và sự quan sát tinh tế, chúng ta mới có thể tự giải thoát khỏi những ảo tưởng đó và thoáng thấy bản chất thực của sự vật.

Tánh Không (hoặc sự tan biến của bản ngã) là sự không hiện hữu một thực thể (hay tự chủ), được nhận định rõ ràng trong giáo lý Phật giáo. Nó có nghĩa là không có gì có thể hiện hữu độc lập với những gì khác, và tất cả các hiện tượng đều liên kết và phụ thuộc lẫn nhau. Không có gì hiện hữu bởi chính nó, và tất cả đều có một hoặc nhiều nguyên nhân, với khái niệm duyên khởi làm sợi dây nối liền.

Trong vật lý lượng tử, khái niệm về tánh Không thực ra chẳng phải là hư vô mà là một sự nhân tăng vật chất hóa năng lượng xuất hiện và biến đi nhờ một số biến đổi năng lượng của cái Không lượng tử (viết gọn là Không). Vật chất xuất hiện và biến đi tùy theo sự thăng giáng lượng tử và do đó mất tính thực thể sờ thấy và bất biến của nó. Nói tóm lại, Không không phải là không có gì mà ngược lại có thể sinh ra một vài hạt hoặc cả một vũ trụ, tùy theo bao nhiêu năng lượng có mặt (E = mc2 trong phương trình nổi tiếng của A. Einstein theo đó năng lượng và vật chất được xem như hai hình thức của một đại lượng).

Cũng như tánh Không theo nghĩa của đạo Phật rất khác với hư không. Thật vậy, Không không phải là thuyết hư vô như người ta thường trình bày. Nó chỉ đơn giản là sự không có mặt của một hiện hữu cố định. Trong vật lý lượng tử, những trạng thái chồng lên nhau là một hình thức biểu hiện khác lạ của vật chất, khó lòng quan niệm được trong thực tế hàng ngày. Nguyên tắc này thể hiện khả năng của một hạt-sóng có mặt cùng một lúc trong nhiều trạng thái năng lượng chồng lên nhau, chừng nào sự bất định chưa được giải toả bằng sự đo lường hoặc sự quan sát. Thí nghiệm nổi tiếng bằng tư tưởng về con mèo của Schrödinger vừa sống vừa chết chừng nào chiếc hòm đựng nó chưa được mở ra, là một biến thể khác của hiện tượng này, rất khó hiểu trong bối cảnh thông thường.

Vấn đề nguồn gốc cũng cho chúng ta một cơ hội để đối chiếu tư tưởng Phật giáo và tư tưởng khoa học. Thật vậy, những định luật vật lý và khoảng hai chục hằng số vật lý cho phép sự sống xuất hiện trong vũ trụ, tỏ ra vô cùng chính xác và được điều chỉnh một cách tinh vi trong sự tương quan lẫn nhau, những điều mà chúng ta không thể nào giải thích được. Chẳng hạn chỉ cần khối lượng proton hoặc điện tích electron hơi khác đi một chút, là sự sống không thể nào xuất hiện trên trái đất. Giáo lý Phật giáo giải thích một cách tự nhiên điều này bằng khái niệm tương quan, duyên khởi và bằng những dòng ý thức tự điều chỉnh trong một vũ trụ không khởi đầu, không kết thúc. Thật ra, thuyết Big Bang có vẻ như chống đối với quan niệm này bằng cách gợi ý có một sự khởi đầu cho vũ trụ, nhưng mô hình này vấp phải tính kỳ dị của giây đầu tiên, nơi mà các định luật vật lý quen thuộc bị hụt hẫng.

Bức tường Planck, tên đặt như vậy bởi vì người ta không thể giải thích có gì trước Big Bang, đã đến để giảm bớt sự tin chắc ở sự ra đời của vũ trụ. Mặc dù “giả thuyết của một người thợ đồng hồ lớn” không phải là điều cần thiết như Laplace đã nói, nhưng chúng ta phải công nhận sự thiếu hiểu biết khoa học của chúng ta về cái toàn thể.

Kết luận

Sau khi dạo quanh một vòng nhỏ còn hạn hẹp này về những quan hệ giữa vật lý lượng tử và đạo Phật, chúng ta có thể nói rằng khoa học và tâm linh bổ túc cho nhau và không chống đối nhau. Cả hai khía cạnh đều hoàn toàn cần thiết và không thể thiếu được cho con người và cho sự phát triển tương lai. Triết lý Phật giáo, nhờ tính chất thực dụng và sự bình dị của nó, đem lại cho con người một khuôn khổ tâm linh tự nhiên cho sự thăng hoa của khoa học hiện đại. Mỗi ngày khoa học phát hiện ra rằng sức mạnh của tư tưởng và lời dạy thực nghiệm của những người sống cách đây 25 thế kỷ có một tính chất thời sự đáng kinh ngạc. Rất có thể chúng sẽ cho phép nhân loại tự giải thoát ra khỏi những ràng buộc và ảo tưởng của mình, và cuối cùng tiến tới sự thanh thản, hạnh phúc và bình an.

Bác sĩ Dominique Prapotnich

Nguồn: Những điểm gặp gỡ giữa đạo Phật và vật lý lượng tử