CHIA SẺ

Chủng tự AH

Theo tôi biết thì khoa học hiện đại đã đối mặt với một cuộc khủng hoảng trong đầu thế kỉ thứ 20. Công trình vỹ đại về vật lý cổ điển được dựng lên bởi Isaac Newton, James Maxwell và nhiều nhà khoa học khác đã cung ứng các giải thích dường như rất hiệu quả về những thực tại được nhận thấy về thế giới và các giải thích đó khế hợp với các ý tưởng thông thường. Công trình đó đã bị làm suy yếu bởi việc phát hiện ra thuyết tương đối và bởi ứng hoạt kỳ lạ của vật chất cấp mức độ nhỏ hơn nguyên tử [hạ nguyên tử], mà đã được tìm hiểu trong vật lý lượng tử. Như Carl von Weizsäcker có lần giải thích với tôi rằng vật lý cổ điển chấp nhận một thế giới quan cơ giới trong đó các luật vật lý phổ dụng chắc chắn bao gồm trọng lực và các định luật cơ học, đã xác lập một cách hiệu quả mô hình của các hành vi tự nhiên. Trong mô hình này, có bốn thực tại khách quan – là các vật thể, các lực, không gian và thời gian – và luôn luôn có một sự khác nhau rõ ràng giữa các đối tượng được biết và chủ thể là người nhận biết. Nhưng trong thuyết tương đối và cơ học lượng tử, theo von Weizsäcker, thì ta phải từ bỏ vấn đề có tính nguyên lý là sự biệt lập giữa chủ thể và đối tượng, và từ bỏ tất cả những chắc chắn của ta về khả năng khách quan của các dữ kiện thực nghiệm. Dẫu sao – và đây là điều mà von Weizsäcker xác quyết: những khái niệm duy nhất mà ta có cho việc mô tả cơ lượng tử và các thí nghiệm để kiểm nhận bức tranh mới của nó [cơ lượng tử] về thực tại lại là những thứ thuộc về vật lý cổ điển [là bộ môn] vốn đã bị lượng tử lý thuyết bác bỏ. Mặc dù với các vấn đề này, von Weizsäcker luận rằng chúng ta cần liên tục tìm kiếm về sự gắn kết nhau trong tự nhiên và về sự hiểu biết của thực tại, của khoa học, và của chỗ đứng của nhân loại mà chúng đúng đắn hơn theo kiến thức khoa học mới nhất.

Dưới ánh sáng của các phát kiến khoa học, tôi cảm thấy rằng Phật giáo cũng phải quyết tâm thích ứng với vật lý cơ bản về các lý thuyết “nguyên tử” của nó, bất kể thẩm quyền được xác lập từ lâu của chúng trong truyền thống Phật giáo. Chẳng hạn, học thuyết cổ sơ Phật giáo về “nguyên tử” chưa bao giờ trải qua một sự tu chỉnh lớn nào, đã đề xuất rằng vật chất thì được cấu trúc bởi một tập hợp của bộ tám “nguyên tử” căn bản: đất, nước, lửa, và gió; tạo thành tứ đại và sắc, hương, vị, và xúc được gọi là bốn dẫn xuất căn bản. Đất có tính rắn đặc, nước có tính kết dính uyển chuyển, lửa có tính năng lực, và gió có tính năng động. Một “nguyên tử” thấy được như là tổ hợp của tám yếu tố căn bản, và dựa trên cơ sở của sự kết hợp của các “nguyên tử” thành phần, mà sự tồn tại của các đối thể trong thế giới vi mô được giải thích. Theo một trường phái Phật giáo cổ nhất là Tì-bà-sa Luận thì những “nguyên tử” căn bản riêng lẻ là các cấu trúc nhỏ nhất của vật chất, không phân chia được (bất khả phân) và do đó không có các bộ phận. Khi các “nguyên tử” như thế kết hợp để hình thành các đối thể, thì những người theo phái Tì-bà-sa khẳng định rằng các “nguyên tử” riêng lẻ không hề chạm nhau. Sự hỗ trợ của thành tố gió và các lực lượng khác trong tự nhiên giúp cho các thành tố cấu trúc được kết hợp thành một hệ thống hơn là việc sụp đổ vào bên trong hay giãn nở vô hạn định.

Đức Dalai Lama 14
Việt dịch: Tuệ Uyển
Nguồn: Giải thích về cấu trúc nguyên tử theo học thuyết “Tứ đại” cổ điển Phật giáo