CHIA SẺ

phat_hoc-0859Thế giới quan Phật giáo, lý duyên khởi và nghiệp quả

Thế giới quan Phật giáo nhìn vạn vật một cách toàn diện, chủ yếu căn cứ trên niềm tin về sự tương duyên của tất cả các hiện tượng và liên hệ tương quan giữa nguyên nhân và kết quả. Niềm tin này được thiết lập trên nguyên lý duyên sinh và đây còn được gọi là định luật phụ thuộc lẫn nhau – quan hệ nhân quả vận hành trong mọi hiện tượng, bao gồm  vật lý, tâm lý và đạo đức. Trong thế giới vật lý chẳng hạn, vạn vật trong vũ trụ liên quan chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ nhân quả, không có điểm bắt đầu, cũng không có điểm kết thúc. Và thế giới dưới lăng kính Phật giáo là một thế giới có cấu trúc hữu cơ trong đó tất cả các thành tố đều phụ thuộc lẫn nhau. Xã hội con người cũng tương tự như vậy, mỗi thành tố đều gắn kết chặt chẽ với nhau. Phương diện tâm lý cũng không khác, thân và tâm không thể là những thực thể tách rời nhau mà liên quan duyên sinh nhau trong cùng một hệ thống “con người”.[1] Thế giới quan Phật giáo cũng bao gồm niềm tin về nghiệp báo – nguyên lý về mối quan hệ giữa việc tạo tác và kết quả tương ứng. Trên phương diện đạo đức thì nguyên lý duyên khởi vận hành theo một quy luật, gọi là luật nhân quả, về mối quan hệ hữu cơ trên cơ sở nguyên nhân-kết quả.

Điều này cho thấy rằng luật nhân quả trong đạo Phật không hoàn toàn là thuyết định mệnh. Nếu chấp nhận thuyết định mệnh thì không thể nào chúng ta đoạn tận được khổ đau. Một người xấu thường được gán cho là do nghiệp của người ấy xấu. Thế nhưng không hẳn như vậy. Hậu quả của nghiệp có thể giảm nhẹ đi không chỉ giới hạn ở đời này mà còn vượt ra khỏi đời này nữa vì theo Phật giáo, cuộc sống không chỉ giới hạn ở sự tồn tại cá nhân và riêng lẻ. Kiếp sống hiện tại chỉ là một phần của vòng luân hồi (samsara) kéo dài qua không gian và thời gian. Một sự hiện hữu nào đó đều luôn được một chuỗi các yếu tố lần lượt quy định và đến phiên nó, trở lại làm điều kiện để tạo nên nhiều sự kiện diễn ra sau đó nữa. Sự tồn tại, trong cùng một thời điểm, vừa là quả của một nhân đã tạo và là nhân đưa đến một quả khác. Chúng sanh bị giam cầm trong vòng luân hồi của sự hiện hữu là kết quả từ chính hành động (nghiệp) của mình, hoặc tốt hoặc xấu. Do nghiệp quy định, hình thức tồn tại của chúng ta trong hiện tại có thể thay đổi hoặc biến mất cũng do nghiệp. Điều này có thể xảy ra vì hiện tại không phải hoàn toàn là kết quả của nhân trong quá khứ. Hiện tại là nhân đồng thời cũng là quả. Là quả, chúng ta bị quy định bởi các điều kiện tương quan nhau xây dựng nên cuộc sống tương tục của chính mình về mặt sinh học cũng như xã hội. Như thế, cuộc sống ấy chính là quả của hành động trong quá khứ. Hiện tại của chúng ta là kết quả của chính những gì mình đã gây tạo trong quá khứ. Là nhân, chúng ta hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Hiện tại chính là vật liệu để xây dựng tương lai,  mặc dù không dễ nhận ra điều này. Với sự chọn lựa của mình, tương lai chúng ta phụ thuộc vào hiện tại chúng ta đang làm gì và tương lai chúng ta sẽ làm gì.

Nguyên lý duyên khởi, sức khỏe và nghiệp

Với thế giới quan Phật giáo, sức khỏe và bệnh tật liên quan đến toàn bộ thể trạng của một con người và đan quyện với nhiều yếu tố khác như kinh tế, giáo dục, môi trường văn hóa và xã hội. Tất cả các yếu tố có tính điều kiện này cần được xem xét đánh giá đúng mức khi tìm hiểu về sức khỏe và bệnh tật. Sức khỏe, do đó, có thể hiểu trong một chỉnh thể trọn vẹn. Điều này nhấn mạnh đến sự hòa hợp – hòa hợp trong chính con người mình, hòa hợp trong các mối quan hệ xã hội và hòa hợp trong liên hệ với môi trường tự nhiên. Quan tâm đến sức khỏe là quan tâm đến con người chỉnh thể, gồm có phương diện thân thể vật lý và tinh thần, các mối quan hệ xã hội, gia đình và công việc, cũng như môi trường trong đó người ấy sống và chịu sự ảnh hưởng tác động. Do vậy, hiểu sức khỏe trên mối quan hệ với một số bộ phận nhất định của cơ thể thôi là phiến diện và đạo Phật không chấp nhận quan điểm này.

Với cách nhìn toàn diện của Phật giáo, bệnh tật chính là biểu hiện của sự mất hòa hợp trong toàn bộ sự sống tổng thể ở con người. Qua những triệu chứng của cơ thể, bệnh tật đã giúp chúng ta biết chú ý đến sự mất hòa hợp này. Do đó, điều trị trong Phật giáo không chỉ là chữa trị các triệu chứng có thể cân đo đong đếm. Đạo Phật chú trọng nhiều hơn đến sự nỗ lực trong việc kết hợp giữa thân và tâm để vượt qua bệnh tật, chứ không phải chỉ chống chỏi với bệnh tật bằng thuốc men. Mục đích thực tế của điều trị là giúp cho bệnh nhân có khả năng trở về cuộc sống hài hòa trong chính con người họ, trong các mối quan hệ với người khác và trong mối quan hệ với môi trường sống tự nhiên. Trong cách nhìn này, trị liệu không phải là cứu cánh mà chỉ là phương tiện để qua đó, với sự trợ giúp của thuốc, con người nhận ra và duy trì được giá trị của sức khỏe và sự an lạc.

Ngoài quan điểm tổng thể vừa trình bày, Phật giáo cho rằng nghiệp là yếu tố quan trọng góp phần vào tình trạng sức khỏe và bệnh tật của con người. Theo quan điểm của đạo Phật, sức khỏe tốt liên quan đến nghiệp tốt đã tạo trong quá khứ và ngược lại. Sự lý giải sức khỏe và bệnh tật dưới lăng kính nghiệp quả nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa đạo đức và sức khỏe. Sức khỏe phụ thuộc vào  lối sống của chúng ta, tức là tùy vào cách nghĩ, cách cảm nhận và cách sống của mình. Bệnh là hậu quả của một lối sống không lành mạnh, ví dụ, sống buông thả mê đắm trong dục lạc sẽ sinh ra bệnh. Cách nhìn nhận theo quan điểm của đạo Phậtnhư vậy là yếu tố định hướng nhằm  khuyến khích sự thực hành các giá trị đạo đức và tâm linh như trải lòng thương yêu, độ lượng và tha thứ. Đây là lý do hàm chứa trong những lời khuyên của đạo Phật dành cho những ai muốn có được sức khỏe tốt thì nên sống đạo đức (giới), rèn luyện tinh thần (định) và phát triển trí tuệ (tuệ) theo con đường thánh tám ngả (Bát chánh đạo).

Có lẽ chúng ta sẽ hiểu hơn về vai trò của nghiệp liên quan đến sức khỏe và bệnh tật qua các trường hợp sau. Ví dụ khi bị bệnh dịch hoành hành, cùng sống trong một điều kiện, môi trường giống nhau mà có người qua khỏi, có người chết. Theo quan điểm Phật giáo, sự khác nhau giữa người sống và kẻ chết khi phải trải qua cùng một trận dịch ở cùng một địa phương như thế là do nghiệp quá khứ của những người này khác nhau. Rồi cũng có trường hợp gặp thầy giỏi thuốc hay mà bệnh nhân vẫn chết trong khi đó có trường hợp không gặp được điều kiện chữa trị tốt mà bệnh nhân vẫn có thể khỏi bệnh. Rồi lại có nhiều trường hợp, khi y khoa hiện đại đã bó tay và chỉ chờ phép màu xuất hiện, thế mà bệnh nhân tự nhiên phục hồi đáng kể một cách bất ngờ. Những trường hợp như vậy củng cố thêm niềm tin trong đạo Phật rằng, bên cạnh những nguyên nhân gây nên bệnh về thân, bệnh còn do nghiệp xấu trong những kiếp sống quá khứ tạo nên. Bệnh do nghiệp gây nên thì không thể chữa lành bằng các phương tiện y khoa, mà bệnh chỉ hết khi nào nghiệp quả được trả hết. Thế nhưng nghiệp của mỗi người là điều bí ẩn đối với chính bản thân người đó cũng như đối với người khác. Vì vậy, không một người bình thường nào có thể biết được bệnh nào là do nghiệp.

Do đó, cần phải thận trọng khi đặc biệt quy kết một căn bệnh nào đó là do nghiệp, bởi vì điều này có thể đưa đến thái độ cam chịu, chấp nhận định mệnh và không nỗ lực tìm cách cứu chữa mà buông xuôi, giao phó cho số mạng chỉ vì chán nản. Đạo Phật khuyên rằng, với mục đích thực tế, chúng ta nên xem tất cả các căn bệnh đều có các nguyên nhân từ trong thân thể. Và ngay cả khi bệnh do nghiệp mà ra, bệnh đó cũng cần được chữa trị. Không có điều kiện nào là cố định vĩnh viễn. Và vì mối liên hệ nhân quả giữa việc đã làm với hậu quả tương ứng có tính điều kiện hơn là ấn định, nên hễ còn sống là còn có khả năng chữa trị. Mặt khác, chúng ta cũng không thể biết khi nào nghiệp xấu của mình đến lúc chín muồi. Do đó, chúng ta cần sử dụng mọi phương tiện chữa trị đang hiện hành. Các phương cách chữa trị này, ngay cả khi không thể chữa lành căn bệnh, vẫn lợi ích, vì những điều kiện hợp lý về thân và tâm là cần thiết để nghiệp vận hành. Sự hiện diện của các mầm bệnh do nghiệp quá khứ và do môi trường sống có nguy cơ gây bệnh đều có khả năng làm cho bệnh phát sinh. Nhưng có điều trị là có góp phần ngăn cản ảnh hưởng tối đa của những nghiệp xấu. Sự chữa trị này không can thiệp được vào quá trình hoạt động của nghiệp cá nhân, nhưng có thể làm giảm đi ảnh hưởng của nó. Lời khuyên của đạo Phật dành cho người mắc những chứng bệnh không thể chữa trị được là hãy kiên nhẫn thực hiện các việc thiện để làm vơi nhẹ ảnh hưởng của nghiệp xấu vốn đã tạo từ trong quá khứ. Ít ra, tự mình nỗ lực duy trì sức khỏe hoặc phục hồi sức khoẻ đã là nghiệp tốt rồi.

Tin nghiệp báo trong mối liên hệ với sức khỏe và bệnh tật không có nghĩa là tin vào thuyết định mệnh, và cũng không phải là để bi quan. Như đã đề cập ở trên, luật nhân quả không phải kiểm soát khắt khe và đáng nguyền rủa. Luật này chỉ nhấn mạnh đến mối quan hệ tương quan giữa nguyên nhân và kết quả. Luật nhân quả không hoàn toàn là định mệnh. Tin vào luật nhân quả là để có trách nhiệm cá nhân về sức khỏe của chính bản thân mình. Sức khỏe không phải do ai đó đem cho mình mà có. Sức khỏe chỉ có thể có được bằng chính sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Do đó, chúng ta không nên đổ thừa cho người khác về nỗi khổ niềm đau mình đang chịu đựng vì bệnh tật. Bên cạnh đó, chúng ta có thể cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn khi nghĩ rằng bệnh không nhất thiết là lỗi của mình trong kiếp sống hiện tại, mà bệnh có thể là ‘di sản’ chúng ta kế thừa từ nhiều kiếp sống trước lâu xa trong quá khứ. Nhờ thái độ và nỗ lực của mình trong hiện tại đối với bệnh, nghiệp tốt có thể phát sinh. Niềm tin vào nghiệp cũng giúp chúng ta đương đầu với những nỗi khổ trong cuộc sống, ví dụ như khổ vì bệnh thập tử nhất sinh như bị bạch cầu hay u ác tính, với tâm bình thản, chứ không chống chỏi một cách vô vọng, hoặc sinh tâm thất vọng chán nản và tiêu cực. Một sự chấp nhận bình thản như vậy sẽ giúp bệnh nhân vượt khỏi sự chán chường, duy trì tinh thần tốt trong những ngày cuối đời, và như thế, sẽ có được cái chết bình an.

Sự nhấn mạnh vào nghiệp nhân của sức khỏe và bệnh  ngầm ý rằng con người cần có trách nhiệm cá nhân đối với sự mạnh khỏe và bệnh tật của chính mình. Nghiệp tạo ra do sự chọn lựa của chúng ta trong các kiếp sống quá khứ. Sức khỏe chỉ có thể đạt được nhờ vào sự nỗ lực kiên trì thường xuyên của mỗi người trong đời sống hiện tại này. Nghiệp tốt (ví dụ tập thể dục thường xuyên, chế độ ăn đủ dinh dưỡng, v.v..) đưa đến sức khỏe tốt, trong khi đó, nghiệp xấu (ví dụ thói quen sống không lành mạnh, hủy hoại thân thể và tinh thần) trong kiếp sống này cũng như trong nhiều kiếp sống trước đưa đến bệnh tật. Tinh thần trách nhiệm là điều cần thiết nhất trong việc chăm sóc sức khỏe. Ngày nay, với sự phát minh của các ‘thần dược’ và với sự phát triển của kỹ thuật tiên tiến, nhiều người nhầm tưởng rằng tất cả khổ đau trên cuộc đời đều  có thể giải quyết và khổ đau là điều xấu, bất luận đó là đau về thân xác hay khổ về tinh thần, tình cảm, đạo đức hoặc tâm linh. Và vì đổ thừa cho các yếu tố bên ngoài, người ta đi tìm những phương tiện bên ngoài (ví dụ thuốc uống, thuốc chích và các phương pháp trị liệu khác, v.v..) với hy vọng làm vơi nhẹ khổ đau, mà không tự xem xét lại chính mình và lối sống của bản thân để tìm cách thay đổi những yếu tố liên quan đến bệnh từ bên trong của mình. Khác hẳn với cách hiểu trên, quan điểm nghiệp của đạo Phật về sức khỏe và bệnh tật là nhận ra một thực tế rằng bệnh do tự mình gây nên trên nền tảng những thói quen và cách sống của bản thân. Lý thuyết nghiệp khuyến khích mỗi người tự tìm ra nguyên nhân của bệnh, cũng như những nỗi khổ niềm đau ở chính nơi con người mình. Điều này có nghĩa là cần phải nhìn những nguyên nhân gây bệnh nằm trong các mối liên hệ với cách sống, những quyết định và thái độ sống của mình để kịp nhận ra  cần phải thay đổi sao cho tốt hơn. Giáo lý nghiệp cũng ghi nhận vai trò tích cực của bệnh tật và khổ đau  trong việc thanh lọc tâm, củng cố các phẩm chất đạo đức như can đảm, thấu hiểu mình và thông cảm với người. Tuy nhiên, đạo Phật nhấn mạnh đến nghiệp cá nhân hoặc trách nhiệm cá nhân đối với sức khỏe không có nghĩa đạo Phật quy trách nhiệm cá nhân cho tất cả các loại bệnh tật. Theo quan điểm Phật giáo, nghiệp cần được xem xét ở cả hai phương diện: cá nhân và xã hội. Phương diện xã hội ấy còn gọi là nghiệp xã hội. Trong lãnh vực chăm sóc y tế,  ngoài nghiệp cá nhân ra, nghiệp xã hội được hiểu là các yếu tố môi trường có khả năng góp phần làm cho bệnh nặng thêm hay giảm nhẹ đi . Các yếu tố kinh tế xã hội như những điều kiện làm việc nguy hiểm và ô nhiễm có thể là một môi trường dễ gây bệnh cho người làm việc trong môi trường đó và ngược lại, nếu các yếu tố này tốt thì đó là môi trường tạo nên sức khỏe tốt cho người làm việc. Và xã hội có thể phải chịu trách nhiệm đối với công nhân và công việc của họ  nếu xã hội không duy trì một môi trường lành mạnh cho công nhân hay không cung cấp các điều kiện làm việc an toàn cần thiết.

Khái niệm về nghiệp xã hội còn chỉ cho trách nhiệm của chính quyền trong việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ chăm sóc y tế cho tất cả công dân để đáp ứng các nhu cầu và tạo điều kiện về y tế cho họ.

Nguồn: Tạp chí Đạo đức Sinh học Châu Á và Thế giới, số 15 (2004), 162-4.