CHIA SẺ

buddhaTham ái là mối nguy hại của thời đại. Làm sao diệt trừ được?

Người ta diệt trừ tham ái bằng cách ăn ít, ngủ ít, sống chay lạt, đạm bạc, đọc Kinh sách Phật, sống trong môi trường thanh thoát, thân cận bậc Chân Tăng cao thượng, thiền quán về sự ghê tớm của thân xác lúc sống và khi chết. Quan sát trong chánh niệm (thiểu dục, tri túc–ít muốn, biết đủ).

Tham ái sanh khởi vì nghĩ rằng thân này đáng yêu. Khi chúng ta nhận ra rằng thân này chỉ là phân thối, tham ái tan biến ngay. Thân thể chúng ta đây bao gồm 32 phần bẩn thỉu như sau: tóc trên đầu, lông trên thân, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, bầy nhầy, lá lách, phổi, ruột non, ruột già, bao tử, phân, óc, não, mật, đờm, máu mũi, mồ hôi, chất béo, nước mắt, mỡ, nước miếng, nước mũi, nhớt, nước tiểu…

Nếu tóc trên đầu rơi vào cơm, canh, nhất định cơm, canh sẽ bị đổ đi vì ghê tởm. Vì vậy những bộ phận của cơ thể mà rơi vào đều làm cho ta chán ghét. Vậy mà những bộ phận còn dính trên thân thể thì có vẻ xinh đẹp là do tham ái làm mờ mắt.

Tôi phải nêu lên câu hỏi. Bởi vì có đặt câu hỏi chúng ta mới kích động ý tưởng. Quý vị giải thích thế nào về sự kiện tóc ở trên đầu có vẻ đáng yêu. Trong khi thực sự cũng loại tóc đó rơi vào dĩa súp, cơm, canh làm ta ghê tởm, chán ghét? Theo quan điểm khoa học cả hai loại tóc đều là giống nhau, dù rằng nó còn dính trên đầu hay rơi vào thức ăn, tóc vẫn là tóc.

Làm thế nào người ta ngưỡng mộ tóc trên đầu nhưng lại ghê sợ tóc trong thức ăn? Khác nhau điều gì? Xét về phương diện hóa chất, chúng rõ ràng giống nhau. Nhưng tại sao chúng ta lại yêu thích cái này nhưng lại ghét bỏ cái kia? Tôi không hiểu là có nhà khoa học nào trong số thính chúng tại đây có thể nói lên một sự giải thích khoa học nói về hiện tượng kỳ lạ này.

Bởi vì đề tài thuyết giảng hôm nay là “Phật Giáo là tôn giáo của biện chứng khoa học”. Vì vậy tôi hy vọng các nhà khoa học trong số thính chúng đây nêu lên câu giải thích cho hiện tượng kỳ lạ này. Vị nào có thể giải thích được tại sao? Không ai trả lời cả. Dù sao đây là câu trả lời vì đó là phận sự của tôi phải giải thích. Ðây nhé! Nếu bạn dùng một nồi nấu nước, khi nước bắt đầu sôi, bạn khó mà thấy rõ được cái bọt của nước. Chừng nào nước nguội, lặng ta mới có thể thấv rõ các bọt nước bên dưới.

Tương tự khi tóc đang sôi sục khắp nơi vì tham ái, khó mà nhận rõ chúng đúng như thật tướng. Do vì con mắt đang bừng cháy cuồng nhiệt với lòng tham ái, bám chặt vào tóc uế nhiễm ghê tởm trên đầu con người, tóc có vẻ xinh đẹp. Trái lại khi người ta tìm thấy trong đĩa súp, tóc có vẻ uế nhiễm ghê tởm. Vì tâm lúc đó nguội lạnh không có tham ái chen vào thế nên dĩa súp ghê tởm phải đổ đi. Chính sự đam mê đã che mờ con mắt, khiến mắt không thấy rõ. Vì vậy khì ta nhìn tóc trên đầu với con mắt bị che mờ. Nên không nhìn rõ các sự vật uế nhiễm đúng như thực tướng của chúng.

Khi tóc thực sự ghê tởm, nó lại có vẻ xinh đẹp, nhưng khi tóc nằm trong thức ăn–không có tham dục trong mắt–lúc mở mắt ra ta thấy rõ tóc như thực trong canh nhờ diệt bỏ đam mê cảm xúc, và nhờ vậy ta thấy rõ tính chất ghê tởm của tóc–do khi ăn ta không khởi tham ái. Từ đây trở đi, chúng ta thấy tóc là phát khiếp, rồi lập tức hoặc là đổ bỏ thức ăn, hoặc là vớt tóc ra nếu muốn tiết kiệm.

Nhưng chưa hết bất hạnh, ngay khi ta vớt tóc ra rồi ta vẫn còn cảm giác ghê sợ dù rằng lúc đó không còn tóc trong thức ăn. Bởi vì ta vẫn còn ấn tượng rằng tóc vẫn còn ở đó trước kia. Quý vị có thấy không, khi ta mở mắt, viễn ly tham ái khiến ta thấy rõ các sự vật đúng như thực tướng của chúng. Mặt khác, khi bị tham ái che khuất mất. Ta ngưỡng mộ mái tóc trên đầu. Nhưng nhớ rằng tóc vẫn là tóc dù nó ở trên đầu hay trong thức ăn. Nó thực sự có cùng bản chất uế nhiễm như nhau.

Ðiều tương tự không phải chỉ cho tóc trên đầu mà còn áp dụng cho lông trên thân, răng, móng, da. Khi răng còn nằm trên những lỗ chân lông (nướu răng) của một cô gái đẹp chẳng hạn, các thi sĩ sẽ đánh bóng lên đầy vẻ đam mê ngưỡng mộ. Lúc đó thi sĩ sẽ diễn tả: Nàng có hàm răng tuyệt đẹp như vòng ngọc trai. Vậy mà khi chiếc răng rơi vào tô canh, bạn sẽ phải đổ đi vì cảm giác ghê rợn.

Hãy nhớ răng thực sự đều giống nhau dù nằm trên nướu răng ở miệng hay khi nó rơi ra. Trong một trường hợp là do có sự đam mê, trường hợp kia không có đam mê chen vào. Vì vậy, chúng ta nên nhìn sự vật theo đúng thật tướng của chúng. Có vậy sau đó bạn mới ghê tởm 32 phần còn lại trong thân thể dù là chúng đang còn trên thân thể hay rơi ra ngoài, chúng đều như nhau. Vậy thì nhờ xả bỏ chứ không phải chấp thủ thân của người khác không chấp thủ thân mình.

Chúng ta trở nên ly dục hoàn toàn. Dục vọng khi bị tiêu trừ, chúng tà sẽ đạt được niềm an vui an sung mãn, đó là Niết Bàn tối thượng.

Một xác chết được phơi bày ra ngoài trời vài ngày là một đề tài tham thiền tuyệt diệu. Cái xác chết chướng phồng lên, tím đen với những bầy côn trùng nhun nhúc từ 9 lỗ bò ra làm cho ta ghê tởm bản chất ô nhiễm của thân xác. Chúng ta nên ngồi xuống và tự đồng hóa mình với thi thể khiếp đảm, quán chiếu như sau:

Như ta nay còn đây, vị kia đã có lần như ta. Như vị ấy bây giờ, ta cũng lại như thế! Do quán chiếu cách này, niệm tưởng sau cùng sẽ bừng dạy trong ta rằng thân này là cái xác buộc vào cổ chúng ta, chúng ta chán ghét cái thân này và thân người khác. Ðây là cách diệt trừ tham ái vĩnh viễn.

Cái thân còn sống này được nung nấu bằng chất đốt và tiến trình trao đổi chất. Nhờ vậy tránh được sự phân hủy làm mục rữa. Nhưng thật ra cái thân còn sống hay thân chết đều có như nhau, tính chất ghê tởm đáng được ghét bỏ. Hãy nhìn những thân thể người cùi hủi. Họ nhơ nhớp làm sao.

Khi mọi tham ái được diệt trừ hoàn toàn, người ta chứng đạt Niết Bàn, có nghĩa là không còn tham ái.

Niết Bàn là trạng thái tươi mát tối thượng. Tham ái là ngọn lửa dữ dội trong các ngọn lửa. Khi tham ái chấm dứt, ta đạt được trạng thái tối thượng. Trong Phật Giáo có 40 đề mục thiền quán được gọi là Quán về thân. Trong số 40 đề mục thiền quán, không dưới 10% hay 25% được ngưỡng mộ là tham thiền nơi nghĩa địa. Ngày xưa, xác chết được ném ra bãi tha ma, nghĩa địa.

Các nhà Sư có được cơ may tuyệt vời để thực hành tu tập quán tử thi hay là thiền định về xác chết uế nhiễm, hôi tanh trong tất cả 10 giai đoạn phân hủy thi hài. Nhưng ngày hôm nay do những luật lệ vệ sinh, xác chết không được quăng ra ngoài nữa. Họ phải chôn hay hỏa táng. Và do vậy mà các nhà Sư mất đi cơ hội tuyệt vời thiền quán trên xác chết ghê tởm trải qua 10 giai đoạn phân hủy, tan rã thân xác. Từ đó trở đi, ta thấy rằng các vị Alahán ngày nay rất ít, bởi vì họ đã bị tướt đoạt cơ hội thực hành quán tử thi.

Tuy nhiên, lúc tôi còn ở Rangoon, tôi quyết định thực hành pháp Quán tử thi. Tôi nghĩ, nếu một sinh viên y khoa bình thường được có một xác chết trong phòng thí nghiệm giải phẫu để thí nghiệm cơ thể con người thì tại sao những Bác sĩ tinh thần, tức là những nhà Sư lại không được có những cơ hội tương tự để nghiên cứu những xác chết trong khi đang còn trong tình trạng phân hủy.

Tôi cố gắng hết sức mình để xin nhà cầm quyền Miến Ðiện thiết lập một nghĩa địa tại nghĩa trang, nơi đó có nhiều xác chết có thể được phép phân hủy một cách tự nhiên để cho các nhà Sư diệt trừ tham ái nhờ thiền quán về sự uế nhiễm của thân xác.

Tôi đã hầu như sắp thành công trong việc thành lập những phòng mổ thiền định. Lúc chiến tranh đã xảy ra, tuy nhiên ngay trước chiến tranh, tôi đã hợp đồng với Bác sĩ phẫu thuật của Tổng Y viện ở Rangoon và nói với ông ta: “Bất cứ khi nào Bác sĩ tìm thấy một xác chết dưới sông, vui lòng gọi cho tôi biết, tôi sẽ xuống nhận, bởi vì tôi phải thực tập 10 đề mục quán tử thi do Ðức Thế Tôn chỉ dạy nhằm hủy diệt tham ái”.

Bác sĩ phẫu thuật trả lời: “Vâng! Thưa Thượng Tọa, tôi sẽ gọi Ngài chắc chắn mà!”.

Ðủ bảo đảm lời hứa của ông ta. Và một ngày nọ tôi vội vã đến Tổng Y viện, tôi gặp vị Y sĩ phẫu thuật, ông ta hướng dẫn tôi đến nhà xác. Ở đó có một xác chết trương phình lên dễ khiếp!

Một thi hài trương phình lên là mẫu hiếm có, bởi vì nó chỉ kéo dài 24 tiếng thôi. Xác chết phồng lên như quả bong bóng, hai mắt phồng lên, hai gò má phồng lên, cái bụng phồng lên, chân tay cũng phồng lên. Tôi bảo Bác sĩ đặt một chỗ ngồi không xa lắm, đóng cửa phòng và cho phép tôi tập trung về xác chết ghê tởm.

Tôi muốn chụp một bức ảnh nhưng không có máy. Vì vậy tôi sáng chế máy ảnh tâm thức bằng cách tập trung chú ý vào tử thi. Tử thi thì đầy những ruồi, tôi che kín thân bằng chiếc y của tôi, bởi vì những con ruồi cứ bay lãng vãng quanh tôi. Có lẽ chúng nghĩ rằng tôi là xác chết. Tuy nhiên tôi vẫn tiếp tục tập trung chú ý vào tử thi khoảng nửa giờ. Tôi đã thực hiện xong bức ảnh tâm thì đến giờ ăn sáng.

Tôi bước ra khỏi xác phồng. Và khi tôi khởi sự thọ trai dưới bóng cây tôi cảm thấy tôi đang ăn cái xác phồng đó, cho nên ăn không ngon chút nào. Ðó là bài Pháp của Ðức Phật rằng mọi thể xác đều uế tạp, ghê tởm. Chúng ta phải nhận thức được bản chất tử thi, bản chất đáng ghê tởm của thân xác. Và vì vậy, hãy từ bỏ thân xác, từ bỏ tham ái. Ðó là Niết Bàn, là sự vắng bóng tham ái.

Phật Giáo là gì? Phật Giáo là sự rèn luyện tâm. Ðức Phật tặng ta cục xà phòng tinh thần để tẩy đi những ý tưởng nhơ bẩn. Xưa có một nhà Sư không thể tập được quá nhiều giới luật, muốn về đời, Ðức Phật hỏi: “Một mình con có thể thực hiện được một điều không?”.

Sư trả lời: “Thưa được! Bạch Ðức Thế Tôn”. Ðức phật dạy: “Hãy quán sát tâm, hãy kiên trì với phạm hạnh của mình”. Vì vậy Sư làm theo lời dạy của Phật, nghiêm mật canh chừng tâm, không bao lâu Sư chứng Alahán. Nếu bạn quán sát tâm bạn cũng sẽ đạt Niết Bàn. Tôi sẽ giải thích đoạn kế tiếp bằng cách nào để quán sát tâm.

Cái tâm thức lang thang dong ruổi–trạng thái trạo hối như nạn nhân đang nằm giữa hai hàm răng nanh của dục vọng–tính lười biếng, hôn trầm là cơ xưởng của ma quái.

Vậy bạn phải quán sát tâm cho đến khi tâm thuần tịnh. Ta sẽ đắc chứng Niết Bàn vĩnh cữu.

Chúng ta lại cũng nên ăn càng ít càng tốt, cốt giữ cho thân xác sống còn. Bởi vì cũng như ta ném quá nhiều than vào lò, thì lò trở nên nóng hực, sức nóng của dục càng dâng cao. Một ngày chỉ dùng một bữa trước giờ ngọ. Đó là quy luật an toàn nhất. Nếu ta ăn nhiều vào ban đêm chỉ làm cho khát dục càng tăng trưởng mà thôi.

Hãy sống và để cho người khác sống yên lành. Hãy coi mọi sinh vật như là bà con láng giềng của ta. Tất cả sinh mạng đều như một, yêu thương hàng xóm tức là yêu thương chính mình. Thù ghét người bên cạnh là ghét bỏ chính mình.

Vấn đề ngủ cũng cần giới hạn. Chúng ta ngủ càng ít càng tốt. Bạn thử quán chiếu, thế giới đang bừng cháy, làm sao ta ngủ được trong căn nhà đang bốc cháy đó. Lại nữa, trái tim của con người không bao giờ ngủ, tại sao tâm thức cứ ngủ mãi. Tâm thức không mạnh bằng trái tim sao. Khoa học đã chứng minh rằng tâm là kẻ độc quyền điều hành cơ thể.

Tại một cơ quan tổ chức xã hội Smith Sonian ở Washington người ta làm một cuộc thử nghiệm bằng con người. Cho anh nọ vào khung chuồng và nhịn đói trong 40 ngày. Dĩ nhiên tổ chức phải trả thù lao xứng đáng cho anh ta với số tiền đó anh ta mới chịu cho cuộc thử nghiệm kỳ lạ này.

Các bộ phận cơ thể được cân đo trước và sau đó. Kết quả sau 40 ngày tuyệt thực, người ta thấy gan thận và các bộ phận khác lại giảm đi phân nữa so với lúc đầu, trong khi não bộ hoàn toàn không khác trước kia. Tất cả bộ phận đã tự hy sinh để giữ cho não bộ còn nguyên vẹn.

Như vậy não bộ mạnh hơn trái tim, lẽ ra phải hoạt động ít nhất không thua gì trái tim thường xuyên vận động. Bởi vậy tâm thức phải làm việc chứ không nên ngủ nhiều.

Bạn thấy đó, ngủ quả là một thói quen xấu của tâm. Ðức Phật xưa kia mỗi ngày chỉ ngủ một giờ 20 phút và suốt trong thời gian 1g20 phút này. Ngài vẫn thức tỉnh hoàn toàn. Ban đêm không phải để ngủ mà là để tu tập. Hãy nhớ rằng tất cả bậc Thánh vĩ đại đều chứng ngộ Ðạo quả vào ban đêm.

Suốt đêm, Ðức Phật thành Ðạo tối thượng thừa dưới cội cây Bồ Ðề tại Buddhagaya. Khởi đầu của thế giới, nếu không có ban đêm, tôi đoán chắc người ta có thói quen ngủ mãi. Nhờ sự kiện mặt trời lặn và bóng tối tràn khắp. Những lớp người đầu tiên cõi trần gian sơ khai này nói: “Ôi! Mặt trời đã đi rồi, chúng ta nằm xuống chờ ông ta trở lại, bởi vì trời đang tối. Nhưng nếu lúc đó có hai mặt trời. Một có suốt ban ngày và một có suốt ban đêm thì chắc là trời chỉ có ban ngày chứ không bao giờ có ban đêm. Napoléon Bonaparte chỉ ngủ có bốn giờ một ngày. Vì vậy nếu bạn muốn tiến lên tầm mức cao hơn, hãy tự tập ngủ càng ít càng tốt. Bởi vì bạn nhớ rằng, kẻ cướp thường lấy cắp vào ban đêm. Tài sản lớn nhất của bạn là gì? Ðó là Ðức Hạnh. Ðức Hạnh là tài sản vĩ đại nhất.

Vậy thì tại sao bạn lại cho phép kẻ khát ái–một thứ cướp nguy hại nhất–vào nhà ban đêm để cướp Ðức Hạnh– thứ tài sản cao quý nhất của bạn. Nếu trái tim bắt đầu ngủ, bạn sẽ được đưa ra lấp đất tại nghĩa trang. Còn tâm sao lại không. Sao bạn không cho phép tâm nghĩ. Nếu trái tim đập nhồi máu cả ngày lẫn đêm, cả đêm lẫn ngày thì tại sao não bộ lại không hoạt động cả đêm lẫn ngày, cả ngày lẫn đêm. Nếu trái tim có thể làm việc liên tục thì tâm thức cũng có thể làm việc không cần nghỉ chứ. Giản dị là ta cần bỏ thói quen ngủ nhiều.

Cố gắng rèn luyện tâm, tinh tấn làm việc, bạn sẽ hiểu cách ngủ ít nào mà tâm thực sự cần đến. Bởi vì như Ðức Phật đã dạy trong lời sau cùng. Nhờ nhiệt tình mà thành đạt mục dích. Ðây là tinh hoa của Ðạo Phật. Toàn bộ Phật Giáo có thể giải thích bằng một từ Pali “Appamada” nghĩa là “tinh tấn mãnh liệt”. Không có tinh tấn sẽ không có Niết Bàn. Hãy tinh tấn rèn luyện tâm thức tu tập đêm ngày bạn sẽ thành tựu những gì mà Ðức Phật đã thành tựu.

Có 13 phép tu khổ hạnh đặc biệt trong Phật Giáo gọi là Hạnh Ðầu Ðà (Dhutanga). Pháp tu khổ hạnh do Ðức Phật chỉ dạy trong số 13 pháp là ngủ trong tư thế tọa thiền. Ðức Phật cho phép ngủ trong tư thế tọa thiền. Bởi vì ngủ trong tư thế này thì đầu trở nên nhẹ, máu và các phần tử nặng chảy xuống do lực hấp dẫn, con người luôn luôn tinh tấn, sẵn sàng tọa thiền mà không hề bị hôn trầm (buồn ngủ).

Hôm nay tôi đang trải qua với đề tài “Bất Hại”. Tôi đã thuyết giảng đề tài này trong 2 giờ đồng hồ rồi, một giờ cho tôi và một giờ cho thông dịch viên. Nhân đây tôi xin kể cho quý vị nghe câu chuyện về một bé trai người Singapore bị rắn độc cắn. Người cha cầm cái rìu định giết con rắn độc. Ðứa con sắp chết liền xin cha tha mạng cho rắn, và vì lời cầu mong lúc sắp chết của đứa con, người cha bắt buộc phải tuân theo. Con rắn bỏ đi mất và người con chết liền sau lúc đó. Người con chết vì nọc rắn, đã cứu mạng con rắn cắn mình. Ðây là quy luật “Bất hại”. Bé trai đó tha mạng sống và không muốn kết oán thù. Ðây là bài học chúng ta nên noi gương hành động như người Phật tử chân chính. Chúng ta sẵn sàng cống hiến mạng sống của mình cho mọi sinh vật và không nên nuôi dưỡng hận thù trong tâm mình.

Như quý vị đã biết, chúng tôi đang trên đường hoằng pháp tại Mỹ, khắp cả nước Mỹ. Có thể quả là niềm vui chung khi thấy Phật Giáo phát triển khắp thế giới nhờ công tác hoằng pháp lợi sinh. Chúng ta nên cổ vũ bất kỳ một Phật tử nhiệt tình nào hộ trì đối với hoạt động vinh quang này. Không có công tác hoằng pháp sẽ không tôn giáo nào lâu dài. Phát triển là khỏe mạnh, thiếu thốn là bệnh hoạn. Chúng ta hãy phát triển để được khỏe mạnh. Món quà chân lý là món quà vĩ đại nhất trong tất cả. Phật Giáo là một tôn giáo khoa học cho tâm thức khoa học.

Giờ đây là thời điểm lý tưởng, sau thế chiến thứ hai, những người Mỹ có đầu óc khoa học sẽ sẵn sàng ôm lấy Phật Giáo khoa học. Họ nồng nhiệt mong chờ quả bom nguyên tử của tình yêu. Ngôi chùa cao chọc trời vô song của chúng ta tại Nữu ước cống hiến cho hòa bình thế giới, chắc chắn sẽ đưa thế giới lên đỉnh cao. Những năm 2500 chúng ta sẽ thấy Phật Giáo vươn lên và chúng tôi phải khởi hành ngay từ bây giờ bằng cuộc hoằng pháp sang Mỹ và trên khắp thế giới để làm cho sự phát triển này thành một hiện thực sống động.

Hãy nhớ rằng chúng tôi sắp phải qua phương Tây, mang thông điệp vô song này của Ðức Thế Tôn cho người Mỹ đang khát khao Phật Pháp. Trái lại những nhà truyền giáo Thiên Chúa đi đến phương Đông để tặng tôn giáo của họ cho chúng ta. Chúng tôi sắp qua các nước phương Tây để trao đổi cho nhau hay dâng tặng món quà tín ngưỡng Phật đạo tại nơi đó. Nhờ sự trợ duyên thích hợp này tạo thêm thiện chí và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Nhớ rằng sự thiếu thốn về thực phẩm tinh thần là nguyên nhân của chiến tranh. Thực phẩm tinh thần cần có mỗi ngày cho tâm thức.

Ðừng bận lòng chỉ lo có thực phẩm vật chất, bởi vì một người không phải sống chỉ có ăn. Mỗi ngày trẻ em nên tiếp nhận thực phẩm tinh thần. Chúng phải được huấn luyện trong tình thương yêu của Ðức Phật. Trẻ em phải được dạy dỗ giáo pháp. Chúng phải được đi học ở các trường Bồ Ðề. Tâm hồn mềm yếu của chúng không để cho bị lợi dụng làm mốt thời trang hay bị uốn nắn bởi ý đồ của ngoại nhân. Vì họ có thể trao đổi ngay cả tín ngưỡng của họ cho chúng ta do ảnh hưởng ngoại lai.

Vì vậy quý vị hãy gởi con em của mình đến học tại các trường Phật học Bồ Ðề để trường có thể giữ mãi những đứa con Phật của quý vị. Ðạo Phật nhờ vậy sẽ mãi mãi phát huy và đứng vững. Tôi đang hoạt động ở các nước phương Tây để chuyển hóa đạo Phật đến với họ. Còn quý vị đang sinh hoạt ở phương Ðông làm sao bảo đảm rằng các con em của mình tiếp thu được một nền giáo dục Phật đạo hoàn hảo. Bởi vì Ðức Phật là bậc Thầy vĩ đại nhất trong tất cả các bậc Thầy.

Ðể kết thúc bài giảng, tôi xin có lời tán thán hạnh nguyện kiên trì cao đẹp của quý vị. Trong khi lắng nghe rất lâu bài Pháp thật dài này, chắc chắn quý vị sẽ hưởng được nhiều công đức nhờ thưởng thức được món ăn tinh thần, mà tôi đã không cống hiến được bao nhiêu, lại nữa, quý vị còn phải tiêu hóa món ăn tinh thần đó, nên khi về nhà phải tư duy một số việc đã tiếp thu hôm nay và cố gắng tiêu món ăn tinh thần đó mỗi ngày cho đến khi tất cả các ngọn lửa của sáu giác quan đều dập tắt. Lúc đó quý vị sẽ tận hường niềm hỉ lạc tịch tĩnh, nơi không còn tham ái. Ðây là Niết Bàn: niềm an vui tối thượng.

Thích Giải Thông (dịch)

Nguồn: Đạo Phật – Tôn giáo của biện chứng và khoa học (phần 2)