CHIA SẺ

pasted image 0Lời người dịch:

“Stress có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lý và tâm lý, một trạng thái căng thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể. Một nhân vật nêu lên trong bài viết này cho biết chữ “Stress” không có trong ngôn ngữ Tây tạng, người dịch cũng nghĩ rằng không có trong ngôn ngữ Việt NamTuy thếtriệu chứng khủng hoảng của trạng thái căng thẳng thần kinh xảy ra thường xuyên chung quanh ta, nhưng vì ngôn ngữ không đủ khả năng thích ứng kịp thời với hậu quả cùng những biến đổi trong xã hội ngày nay để nhanh chóng sáng chế ra những ngôn từ thích nghi dùng mô tả những triệu chứng ấy mà thôi. Viện Tâm Linh và sự sống (Mind and Life Institute) tổ chức thường xuyên những cuộc gặp gỡ giữa các nhà khoa học nổi tiếng cùng với Đức Đạt-lai Lạt-ma, cũng như với các nhà sư danh tiếng khác trên thế giới để trao đổi những hiểu biết giữa khoa học và Phật giáo. Phúc trình và kết quả những lần họp như thế đều được xuất bản thành sách. Dưới đây là nội dung hội nghị được tổ chức vào cuối năm 2005 và đã được bác sĩ Thierry Janssen tóm lược. Bác sĩ Thierry Janssen vừa là một bác sĩ giải phẫu vừa là một bác sĩ điều trị tâm thần nổi tiếng, ông đã từng xuất bản nhiều sách về tâm linh. Tôi xin lược dịch bài viết của ông dưới đây”.

Nhiều khoa học gia lừng danh thế giới họp nhau để gặp gỡ Đức Đạt-lai Lạt-ma và một số các nhân vật khác về tâm linh trong ba ngày từ ngày 8 đến ngày ngày 10 tháng 11 năm 2005. Hội nghị do Viện tâm linh và sự sống (Mind anh Life Institute) tổ chức tại Washington, chủ đề chính thức là “Sự mềm dẻo của não bộ”. Hội nghị này được tổ chức vài ngày trước khi khai mạc Hội nghị thường niên của Hiệp hội Thần kinh học, và chính trong dịp đại hội của Hiệp hội Thần kinh học, Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng đã được mời đọc diễn văn khai mạc.

SỰ HIỆP LỰC GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO

Viện Tâm Linh và Sự Sống có thể là một tấm gương tiêu biểu nhất cho sự hợp tác và hỗ trợ giữa những ngành học rất khác nhau và sự hiểu biết đa dạng. Với chủ đích thiết lập đối thoại giữa khoa học và Phật giáo, hai nền văn hóa đó sẽ ra sức, tùy theo những phương pháp cá biệt của mỗi ngành, để tìm hiểu bản chất của thực tại, nhằm vào mục tiêu cải thiện hoàn cảnh con người.

Dự án trên đây là một dự án khá tham vọng. Vì thực tế, không có gì khó hơn là thiết lập đối thoại mang tính cách xây dựng giữa hai nền văn hóa khác nhau. Nhưng thực tế cho thấy chỉ hai năm sau đó, cuộc gặp gỡ đầu tiên được tổ chức tại Dharamsala (Ấn Độ) nơi tư thất của nhà lãnh đạo tinh thần của người dân Tây Tạng là Đức Đạt-lai Lạt-ma và những nhà khoa học. Tiếp theo đó, khoảng một chục cuộc họp nhỏ hơn đã được tổ chức đều đặn cho đến năm 2003, khi trường đại học danh tiếng là Massachusetts Institute of Technology (MIT) mời ông Engel đứng ra tổ chức một hội nghị ở Boston với số cử tọa lớn hơn nữa. Vào lúc ấy thì ông Francisco Verala đã qua đời vào tháng 5 năm 2001. (Ghi chú thêm của người dịch: Đức Đạt-lai Lạt-ma được thông báo ông Francisco Verala ngã bệnh và Ngài đã thấy trước sự ra đi của ông này, Ngài liền cho thu băng video hình ảnh và những lời dặn dò của Ngài để cấp tốc gửi sang Paris cho ông Francisco Verala nghe trước khi ông từ trần). Nếu ông còn sống có lẽ ông sẽ phải hân hoan lắm khi thấy kết quả đối thoại do Viện Tâm linh và Sự sống đem đến đang thu hút sự quan tâm cao độ của tất cả cộng đồng khoa học.

Cách hai mươi năm trước đây, mấy ai có thể ngờ được lần hội nghị thứ mười ba của Viện Tâm linh và Sự sống, nêu lên những đối thoại giữa khoa học và tâm linh lại được hai thể chế uy tín như Đại Học Johns Hopskin ở Baltimore và Đại học Georgetown ở Washington đứng ra hỗ trợ? Trong buổi khai mạc, ông Edward Miller khoa trưởng Phân Khoa Y học Johns Hopskin đã đứng lên phát biểu như sau: “Sứ mệnh của chúng ta là đề cập đến những lãnh vực chưa được khám phá và tìm hiểu những gì chưa có thể hiểu nổi. Chúng ta nên đón nhận những thắc mắc mới để đem đến những giải đáp mới”. Chủ đề nêu lên trong lần họp này là cơ sở khoa học và hiệu quả trị liệu do Thiền Định mang đến. Đây là những thắc mắc mà các nhà nghiên cứu Tây phương đã nêu lên từ lâu. Nhưng từ khi ngành Thần kinh học thành công với một số tiến bộ mới nhất gần đây, người ta mới bắt đầu tìm thấy những câu giải đáp. Đó cũng là những gì mà hai nhà khoa học Jon Kabat Jinn và Richard Davidson, phụ trách chương trình khoa học cho những buổi họp đang diễn ra, đã chứng minh qua suốt quá trình thực hiện lâu dài của họ.

MỘT PHƯƠNG CÁCH CHỐNG LẠI SỰ CĂNG THẲNG THẦN KINH (STRESS)

Từ những năm đầu thập niên 1970, nhà sinh học Jon Kabat Jinn đã chú tâm đến những phản ứng liên quan giữa thân xác và tâm thức. Sau đó, ông nhanh chóng nhận thấy muốn nghiên cứu về sự tương tác giữa thân xác và tâm thức phải nhờ đến các kỹ thuật thiền định dựa vào khái niệm “tâm linh tỉnh thức” (pleine conscience – mindfulness). Đó là cách làm cho tâm thức an bình để buông xả thân xác. Loại bỏ mọi ý nghĩa phụ thuộc có tính cách tôn giáo, hoặc ngoại lai có tính cách Đông phương, ông đề nghị một danh từ hoàn toàn mang tính cách khoa học cho phương pháp do ông đề xướng: giảm căng thẳng thần kinh bằng tâm linh tỉnh thức (mindfulness – based stress reduction: MBSR). Ông Kabat Jinn giải thích: ”Đây là cách đưa thiền định vào việc trị liệu của y khoa”. Phương cách này trước hết là giúp phát huy sự chú tâm vào hiện tại, từng giây phút một và từng giây phút một. Đó là phương cách thiền định đã được “đơn giản hóa” mà ông giảng dạy trong khoa bệnh lý chữa trị căng thẳng thần kinh (stress) tại Đại học Massachusetts. Chương trình giảng huấn của ông khá đơn giản: một buổi thiền định kéo dài hai tiếng rưỡi, mỗi tuần một lần trong tám tuần liền, thêm vào đó mỗi buổi một giờ thực tập tại nhà. Từ 25 năm nay đã có hơn mười lăm ngàn người nhờ vào cách trị liệu nầy để chữa trị các chứng bệnh rất đa dạng như các bệnh về tim mạch, sida, đau nhức kinh niênxáo trộn tiêu hóa của bao tử và đường ruột, nhức đầu, áp huyết cao, mất ngủlo âu và hoảng sợ. Cách trị liệu bằng thiền định này, tức MBSR, đã đem đến nhiều kết quả mỹ mãn, vì thế đã được đem ra giảng dạy cho sinh viên tại 29 trường đại học y khoa trên khắp nước Mỹ. Ông Jon Kabat Jinn đã giải thích với Đức Đạt-lai Lạt-ma như sau: “Điều này đã làm thay đổi mối tương quan giữa bác sĩ và bệnh nhân”. Nhiều nghiên cứu về y khoa càng ngày càng chứng minh mạnh mẽ hơn về lợi ích của phép trị liệu trên đây. Trong số những nghiên cứu được đem ra phúc trình trong buổi hội nghị về Tâm linh và Sự Sống, cho thấy trong trường hợp bệnh vảy nến (psoriasis) (Ghi chú thêm của người dịch: đây là bệnh mãn tính ngoài da, da bị những mảng đỏ và tróc ra thành những vảy trắng), cách trị liệu này bằng tia sáng cực tím sẽ mang đến nhiều hiệu quả rõ rệt hơn nếu phối hợp với phương pháp thiền định MBSR. Ông Kabat Jinn kết luận rằng: ”Thiền định, nhờ vào tác động của nó trên sự căng thẳng thần kinh, có thể giữ vai trò thiết yếu để ngăn ngừa và trị liệu những bệnh tật liên hệ khác”. Quan điểm này cũng đã được nhiều người tán đồng, chẳng hạn như ông Robert Salpolky, giáo sư sinh học và thần kinh học của Đại học Stanford (Hoa Kỳ), ông Johnsheridan, giáo sư miễn dịch học Đại học Ohio State University (Hoa Kỳ) và bà Esther Stemberg, Giám đốc Chương trình khảo cứu về miễn dịch học của Viện Y tế Quốc gia National Institute of Health (Hoa Kỳ), (tương đương với tổ chức Inserm của nước Pháp).

ĐEM CÁC NHÀ SƯ VÀO PHÒNG THÍ NGHIỆM

Ông Richard Davison là một người bạn từ lâu của ông Kabat Jinn, nhưng ông lại dùng một lối nghiên cứu rốt ráo hơn là lối trị liệu theo kinh nghiệm của ông Kabat Jinn. Chẳng qua vì ông là một giáo sư về tâm lý học và tâm thần học tại Viện Đại học Wisconsin (Hoa Kỳ), đồng thời ông cũng là giám đốc một phòng thí nghiệm siêu tân tiến trang bị máy móc, ghi nhận tín hiệu điện lực và hình ảnh cộng hưởng từ tính (IRM), những trang bị này đã giúp ông ghi nhận trực tiếp những sinh hoạt của não bộ. Vì thế ông đã chứng minh cho thấy việc thiền định đều đặn làm gia tăng sức hoạt động thuộc vùng phía trước của não bộ  bên trái (phần này gọi là võ não, thuộc phần trán phía trước: cortex préfrontal), vùng não này liên hệ đến sự quản lý những xúc cảm tích cực, và do đó đã tạo ra sức đề kháng hiệu quả hơn về miễn dịch. Sau hai tháng, một cuộc thử nghiệm về chủng ngừa cho thấy chất kháng thể tiết ra trong cơ thể của những người thực thi thiền định đều đặn cao hơn hẳn đối với những người không thiền định. Trong một cuộc thí nghiệm khác, với sự tham dự của một nhà sư người Pháp là thầy Mathieu Ricard (Ghi chú thêm của người người dịch: thầy M. Ricard là tiến sĩ khoa học, con của một triết gia, nhà văn, bình luận gia, thuộc Hàn lâm viện của Pháp, chính ông này đã chọn một tên khác là J.F. Revel vì không muốn cả hai cha con cùng nổi danh dưới một tên như nhau. Hai người có viết chung một quyển sách tựa đề là “Một Nhà Sư Và Một Triết Gia Với Đạo Phật Ngày Nay”. Thầy M. Ricard tu theo Phật giáo Tây Tạng và thông dịch viên tiếng Pháp chính thức của Đức Đạt-lai Lạt-ma. Mẹ và chị thầy cũng quy y Phật giáo), ông Richard Davison và ông Antoine Lutz (một người Pháp, cựu đệ tử của ông Francisco Varela), cho thấy sự sinh hoạt não bộ của những người tu hành đã thực thi hơn mười ngàn giờ thiền định phát ra những làn sóng gamma nhiều hơn gấp bội so với những người không quen thiền định. Ông Wolf Singer, giám đốc Viện Max Planck tại Frankfurt (Đức), cũng có tham dự trong hội nghịgiải thích những vai trò của những làn sóng gamma là làm gia tăng sức sự điều hành và phối hợp mọi sinh hoạt của não bộ, giúp nhiều khu vực của não đồng bộ hóa sự sinh hoạt, và đồng thời cũng nâng cao cấp bậc tâm linh của những người tu tập thiền định này đã có sẵn từ trước trong những cá thể trên đây và đã góp phần thúc đẩy họ đi xuất gia, nhưng tuyệt nhiên không phải là những gì mà họ đã đạt được bằng sức mạnh thiền định kiên trì sau khi đã xuất gia rồi. Để trả lời cho giả thuyết này, hai ông Lutz và Davidson đem ra so sánh những “thành quả” của những nhà sư đã thiền định suốt 40.000 giờ và những nhà sư chỉ thiền định được 10.000 giờ. Kết quả hết sức kỳ lạ: các nhà sư càng thiền định được nhiều giờ, số lượng làn sóng gamma của họ phát ra càng cao, và hiện tượng này không lệ thuộc gì với tuổi tác của họ. Ông Wolf Singer kết luận như sau: “Vì thế hình như sự tập luyện tâm linh có thể đưa đến một dạng thể tinh thần cởi mở hơn và một thể dạng tâm thức trong sáng hơn”. Mặt khác, những hình ảnh do cộng hưởng từ tính ghi nhận sự vận hành của các chức năng của bộ óc cho thấy các nhà sư sành sỏi trong việc thiền định, sức hoạt động của vỏ não trán thuộc phần bên trái, liên quan đến những xúc cảm tích cựcgia tăng một cách rõ rệt. Hơn nữa, khi các hình ảnh chụp các cảnh tượng đau đớn đưa cho các nhà sư đang được thí nghiệm xem, tức khắc những vùng não bộ tương ứng với những vận hành đau đớn đã được các nhà khoa học biết trước liền bị kích động. Sự kiện này xảy ra giống như thiền định đã kích thích các nhà sư chuyển sang hành động để cứu giúp những người đang bị đau đớn. Thầy Mathieu Ricard bình luận việc này như sau: “Rút lui khỏi thế giới này để thiền địnhchắc chắn là cách chuẩn bị để trở nên công minh hơn khi quay trở về với thế giới xung quanh.

Bác sĩ Thierry Janssen

Việt dịch: Hoàng Phong

Nguồn: Thiền định phương thuốc hữu hiệu giúp cơ thể thích ứng với trạng thái toàn cầu hóa