CHIA SẺ

20160401-星雲大師送千餘位弟子一筆字 110x250cm

Lời giới thiệu của người chuyển ngữ

Dưới đây là phần chuyển ngữ một quyển sách nhỏ của Phật giáo Đài Loan được phổ biến khá rộng rãi. Tác giả là Hòa thượng Hsing Yun (星雲/Tinh Vân), vị đại sư viện chủ ngôi chùa nổi tiếng Fo Guang Shan (佛光山/Phật Quang Sơn) tại Kaohsung (高雄/Cao Hùng) thành phố lớn thứ hai tại Đài Loan. Theo lời giới thiệu trong quyển sách này thì Hòa thượng Tinh Vân sinh năm 1927, thụ phong tỳ kheo năm 1941, là một nhà sư thuộc Thiền Tông, học phái Lâm Tế (Linji). Sau khi thụ phong, Ngài tham gia tích cực vào các chương trình ấn hành kinh sách, cộng tác với các tạp chí Phật giáo và đồng thời thành lập các tổ chức canh tân Phật giáo, chẳng hạn như mở các “Lớp học giảng dạy giáo lý Phật giáo ngày Chủ nhật” tạo cơ hội cho thành phần thanh thiếu niên Phật tử gặp gỡ nhau, hoặc tổ chức các buổi tụng niệm tập thể dành cho các Phật tử tại gia.

“Năm 1967 Hòa thượng Tinh Vân khởi công xây dựng ngôi chùa Phật Quang Sơn tại thành phố Cao Hùng, Đài Loan”. Ngôi chùa này phát triển rất nhanh trong các thập niên sau đó và ngày nay gồm hơn hai trăm ngôi chùa chi nhánh khác khắp nơi trên thế giới, cùng các trường trung học và bệnh viện sinh hoạt trong tinh thần thế tục.

“Hòa thượng Tinh Vân nguyện hiến trọn đời mình cho lý tưởng quảng bá một nền Phật giáo nhân bản và mang giáo lý của Đức Phật vào đời sống thường nhật của người dân qua việc viết lách, thuyết giảng cùng các phương tiện truyền thông đại chúng khác. Ngày nay Hòa thượng Tinh Vân vẫn còn tiếp tục chu du khắp thế giới để thuyết giảng Đạo Pháp/Dharma”.

Hòa thượng sinh tại tỉnh Jiangsu 江苏/Giang Tô, đông bắc Thượng Hải, từng sinh hoạt Phật giáo rất tích cực tại lục địa trước khi đặt chân lên đảo Đài Loan năm 1949. Quyển sách dưới đây là do Ngài viết bằng tiếng Hán và đã được Trung tâm dịch thuật Quốc tế (International Translation Center) một tổ chức của chùa Phật Quang Sơn dịch sang tiếng Anh và phát hành khắp nơi trên thế giới năm 2014. Bản Việt dịch được dựa vào bản tiếng Anh này. Nội dung quyển sách nhấn mạnh đến vai trò của âm nhạc và việc tụng niệm trong lĩnh vực tu tập cũng như các sinh hoạt khác của Phật giáo.

Sau khi đạt được giác ngộ nơi khu rừng Uruvela cạnh thị trấn Gaya, Đức Phật đã phải để ra nhiều ngày đi bộ đến khu rừng Sarnath tại thị trấn Varanasi để thuyết giảng cho năm vị đồng tu của mình trước kia về các khám phá siêu việt mà mình vừa đạt được. Đấy cũng là bước đầu tiên mở ra một hướng đi mới cho nhân loại. Hướng đi đó bắt đầu bằng những bước chân trên một con đường đất hơn hai trăm cây số nhưng dần dần đã trở thành một đại lộ thênh thang, đông đảo và ồn ào, tràn ngập chùa chiền, cờ xí, chuông mõ, ảnh tượng, âm nhạc, kinh kệ, v.v… Trên đại lộ đó có những người đi bộ bồng bế giúp đỡ nhau, lại cũng có đủ loại xe cộ, từ thô sơ đến tối tân. Âm nhạc phải chăng cũng là một trong các phương tiện di chuyển trên đại lộ đó? Vậy chúng ta hãy xem nhà sư Tinh Vân trình bày về vấn đề này dưới đây:

Mục lục

I . Âm nhạc và Phật giáo
II. Lịch sử âm nhạc Phật giáo
III. Các đóng góp của âm nhạc Phật giáo
IV. Canh tân âm nhạc Phật giáo

I- Âm nhạc và Phật giáo

Âm nhạc là một phương tiện biểu lộ các xúc cảm sâu xa của mình. Dù đấy là một bài thánh ca thiêng liêng hay một bài kinh cầu nguyện thì tất cả cũng đều khơi động trong tâm thức chúng ta những xúc cảm thật tuyệt vời. Vì thế âm nhạc thường giữ một vai trò quan trọng trong việc quảng bá tín ngưỡng. Trên khắp thế giới âm nhạc được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực sinh hoạt tôn giáo. Kinh sách Phật giáo cũng thường nói đến vai trò của âm nhạc. Kinh A-di-đà cho biết cõi Cực Lạc luôn vang lừng tiếng ca và lời tụng, cùng với muôn cánh hoa mandarava (mandarava là tiếng Phạn, tên khoa học là Erythrina indica, còn gọi là Indian Coral tree, một loại cây nhiệt đới được xem là mọc ở cõi Cực Lạc/Sukhavati của Phật A-di-đà) nhẹ rơi từ không trung.

Nơi cõi Cực Lạc mọi người đều có thể nghe thấy tiếng hót của chim muông, thánh thót và nhịp nhàng. Cành lá vàng ngọc ngả nghiêng trong gió thoảng, tạo ra những âm thanh du dương, quyện vào nhau tạo thành muôn ngàn giai điệu. Bất cứ ai nghe được những điệu nhạc ấy cũng đều cảm nhận được sự hiện diện của Đức Phật, Đạo Pháp/Dharma và Tăng Đoàn. Vì thế chư Phật và chư Bồ-tát thường sử dụng âm nhạc để giảng dạy Đạo Pháp/Dharma giúp chúng sinh đạt được giác ngộ (tác giả là một nhà sư Thiền Tông thuộc học phái Lâm Tế nhưng lại mô tả cõi Cực Lạc thật tài tình, quả là khó hiểu!).

Trong việc tu tập Phật giáo, tụng kinh và tỏ bày lòng ngưỡng mộ các phẩm tính của chư Phật là cách giúp tinh khiết hóa tâm thức của vô số Phật tử. Trong tập kinh “Sự hoàn thiện tối thượng của trí tuệ” (Great Perfection of Wisdom Treatise) (có lẽ tác giả muốn nói đến tập kinh Bát nhã Ba-la-mật-da / Prajnaparamita-sutra) có nêu lên như sau: “Nếu người Bồ-tát muốn tinh khiết hóa đất Phật thì phải tìm mọi cách làm vang lên từ nơi đó một âm thanh tuyệt vời và cầu mong tất cả chúng sinh đều nghe thấy, hầu làm rung động con tim của họ giúp họ tự biến cải dễ dàng hơn. Chính vì thế mà âm nhạc là cả một lễ vật hiến dâng cho Đức Phật”. Hơn nữa nhằm mục đích quảng bá rộng rãi Đạo Pháp/Dharma, âm nhạc cũng từng được sử dụng vào các dịp cưới hỏi, ma chay và các lễ lạc khác. Đấy là cách mà âm nhạc Phật giáo tạo cho mình một chỗ đứng trong đời sống văn hóa của quảng đại quần chúng.

Vị thầy Taixu (太虛/Thái Hư, 1890-1947, là một nhà sư lãnh đạo phong trào cải tổ Phật giáo tại lục địa Trung Quốc trong một giai đoạn rất khó khăn) từng cho biết: ” Âm nhạc giúp người dân trong xã hội cùng biểu lộ với nhau tâm trạng và các cảm nghĩ của mình. Chỉ cần nghe một người nào đó tấu lên một khúc nhạc thì cũng đủ để nhận biết được tâm trạng của người ấy. Nếu muốn mang lại cho xã hội một sự hài hòa thì nhất thiết người dân phải cùng cảm thông nhau hầu mang lại một sự đoàn kết. Và đấy cũng chính là một trong các vai trò quan trọng của âm nhạc”. Âm nhạc Phật giáo có khả năng thu hút và tạo ra những sự xúc động sâu xa đánh động con tim người nghe, và đấy cũng là một cách biểu lộ cảm tính cao đẹp nhất của con người.

Âm nhạc Phật giáo Trung Quốc sử dụng rất nhiều thể loại khí cụ để tấu lên trong lúc nguyện cầu và tụng niệm. Các khí cụ này một khi được sử dụng trong lĩnh vực tu tập thì đều được xem là các “nhạc khí Đạo Pháp/Dharma”. Trong số các khí cụ này chỉ có chiếc chuông để ngược (inverted bell/chuông có hình một cái bát) là có nguồn gốc Ấn Độ, các khí cụ khác trong âm nhạc Phật giáo truyền thống Trung Quốc đều được sáng chế tại Trung Quốc. Các khí cụ như cồng (gong/chiêng), đại hồng chung (鐘/qing/large bell), trống (故/gu/drum), mõ hình cá (wooden fish), chũm chọe nhỏ (small cymbals), chũm chọe lớn (large cymbals/chập chả) và trống lục lạc (chinese tambourine) thường được sử dụng trong âm nhạc Phật giáo và cả dân gian. Ngày nay, âm nhạc Phật giáo Trung Quốc thường sử dụng các khí cụ hiện đại, chẳng hạn như dương cầm hoặc các khí cụ cổ điển khác của người Âu Châu. Lúc đầu còn khiêm tốn nhưng sau đó âm nhạc Phật giáo đã phát triển rất nhanh và được mang ra trình diễn nơi chùa chiền và các thính đường (concert halls) trên khắp thế giới. Ngày nay các buổi trình diễn âm nhạc Phật giáo có thể sánh ngang hàng với các buổi hòa tấu của các ban nhạc Tây phương.

1. Lịch sử âm nhạc Phật giáo

Dưới triều đại Maurya (317-180 trước Tây Lịch) tại Ấn Độ (Maurya là triều đại văn minh đầu tiên trong lịch sử nước Ấn, do ông nội của vua Azoka/A-dục là Chandragupta thành lập), vị đại vương Azoka/A-dục rất tích cực trong việc bảo tồn và quảng bá Phật giáo. Dưới triều đại của ông, âm nhạc Phật giáo phát triển cao độ, nhiều khí cụ âm nhạc được sáng chế chẳng hạn như các loại chiêng bằng đồng, trống, sáo, tù và bằng sừng, đàn hạc (đàn hạc/harp là một loại đàn nhiều dây). Dầu sao việc tìm thấy các khí cụ âm nhạc vào thời đại của vua A-dục không có nghĩa là các khí cụ này được dành riêng để sử dụng trong các dịp lễ lạc của Phật giáo – sẽ giải thích thêm trong phần ghi chú dưới đây. Khi Phật giáo phát triển tại Tây Tạng thì ca hát và vũ điệu cũng thường được trình diễn trong một số các buổi lễ, Trong tăng đoàn [của Phật giáo Tây Tạng] có một ủy ban chuyên đảm trách âm nhạc và vũ điệu gọi là yueshen (姿神/”tư thần”, đây là tiếng Hán, không phải là tiếng Tây Tạng, ý nghĩa của hai chữ này là tư chất hay phong thái thần thánh) có nghĩa là “âm nhạc thiêng liêng” (“music spirit”), và cũng được gọi là xiangshen (香神, “hương thần”) có nghĩa là “hương vị thiêng liêng” (fragrance spirit”). Trong kinh Mahavairocana Sutra (Kinh Đại Nhật Như Lai còn gọi là Ma-ha tỳ-lô giá-na, là một trong hai bản kinh quan trọng nhất của Phật giáo Tan-tra/Kim Cương Thừa) có nêu lên sự kiện: “Mỗi lời hát là một câu man-tra (man-tra có nghĩa các câu chú mang tính cách thiêng liêng và mầu nhiệm), mỗi vũ điệu đều nói lên một thể dạng của hiện thực”. Những gì trên đây cho thấy Âm nhạc Phật giáo Tây Tạng đã được phát triển cao độ, mang nhiều sắc thái cá biệt và đặc thù. Trong các buổi lễ quan trọng của Phật giáo Tây Tạng, các vị Lạt-ma sử dụng các khí cụ thật lạ và độc đáo, chẳng hạn như kèn, ống loa, tù và bằng vỏ ốc, kèn ống thật dài. Các khí cụ này rất cầu kỳ, trông thật lạ và đẹp mắt.

Sau khi Phật giáo từ Ấn Độ được đưa vào Trung Quốc thì công việc dịch thuật lúc đầu phải dựa vào các bản kinh sutra (tức các kinh Đại Thừa bằng tiếng Phạn), vì sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ nên các bài tụng niệm bằng tiếng Phạn không thể dùng nguyên như thế tại Trung Quốc. Vị thầy Huijao thời Nam Triều (tức thời kỳ Nam-Bắc Triều, 420-589) cho biết như sau: “Các giai điệu trong tiếng Phạn gồm rất nhiều cung bậc khác nhau trong khi giai điệu trong tiếng Hán ít cung bậc và đơn giản hơn nhiều (tiếng Phạn đa âm, tiếng Hán độc âm). Nếu mượn các giai điệu trong tiếng Phạn để tụng các bài kinh sau khi đã được dịch sang tiếng Hán thì sẽ gồm có quá nhiều cung bậc và nhịp điệu cũng sẽ thật nhanh (âm vận của một chữ trong tiếng Phạn thường quá dài và phức tạp so với cùng một chữ tương đương nhưng độc âm trong tiếng Hán). Ngược lại nếu sử dụng giai điệu tiếng Hán để tụng các kinh bằng tiếng Phạn thì phải tụng thật nhanh bởi vì các câu tiếng Phạn quá dài, thay vì chỉ cần một vài cung bậc cũng đủ nếu câu này là tiếng Hán (tiếng Phạn líu lo, tiếng Hán ngắn ngủn vì là độc âm, do đó không thể có một giai điệu chung cho cả hai ngôn ngữ trong việc tụng niệm). Chính vì lý do này nên chúng ta (tức người Trung Quốc) bắt buộc phải dịch các kinh sutra sang tiếng Hán, không thể nào sử dụng các giai điệu trong tiếng Phạn được”. Đây chỉ là một trong các khó khăn về vấn đề dịch thuật mà thôi, bởi vì còn rất nhiều khó khăn khác thuộc các lĩnh vực văn phạm, ngữ pháp và nhất là các từ ghép trong tiếng Phạn. Đối với các danh từ riêng, tên người, địa danh, v.v… thì được dịch sang tiếng Hán bằng hai cách: dịch âm hoặc dịch nghĩa, hoặc đôi khi cả hai, nhưng không thể nào dùng thẳng tiếng Phạn viết theo lối ngoằn ngoèo. Đấy là chưa nói đến các trường hợp dịch sai, hơn nữa tiếng Hán tượng hình do đó thường không có các từ tương đương trong tiếng Phạn rất trừu tượng và triết học. Đây là một trong các nguyên nhân khiến Phật giáo Hán ngữ gặp rất nhiều khó khăn. Phật giáo Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản thừa hưởng gia tài Phật giáo Trung Quốc cũng gánh luôn các khó khăn đó của Hán ngữ. Các nước Tích Lan, Miến Điện và Thái Lan sử dụng thẳng tiếng Pa-li là một lợi điểm rất lớn. Vì lý do không có truyền thống nào về việc tụng niệm nên chùa chiền tại Trung Quốc đành phải vay mượn giai điệu của các bài hát dân gian (folk song/dân ca) hoặc các bài hát nơi chốn cung đình của Trung Quốc để tụng. Tình trạng này đã tạo ra một nền âm nhạc Phật giáo mang tính cách đặc thù và cá biệt của Trung Quốc. Các bài tụng xưa nhất của Phật giáo Trung Quốc được sáng tác dưới triều đại Tào Ngụy (Wei, 220-265). Con trai của hoàng đế nhà Ngụy (tức là Tào Tháo/曹操) là Cao Zhi (曹丕/Tào Phi, con thứ hai của Tào Tháo) một người nổi tiếng hát hay và sáng tác nhạc rất giỏi. Theo truyền thuyết một hôm Tào Phi đi ngang vùng núi Thái Sơn (泰山) tỉnh Sơn Đông (山东/Shandong) bỗng nhiên nghe thấy từ không trung vang lên một bài tụng bằng tiếng Phạn. Tào Phi rất xúc động trước các giai điệu tuyệt vời này bèn ghi lại bài tụng đó bằng cách chuyển âm từ tiếng Phạn và gọi là “Yushan Fanbei” (鱼山梵呗/ “Ngư sơn phạm bái” có nghĩa là “Bài tụng mẫu bằng tiếng Phạn viết tại núi Ngư Sơn”) và đây là bài tụng Phật giáo đầu tiên viết bằng Hán ngữ [nhưng âm vận là tiếng Phạn]. Bài tụng này sau đó đã trở thành mẫu mực cho toàn bộ âm nhạc Phật giáo Trung Quốc (hóa ra Tào Phi là cha đẻ của phép tụng niệm trong Phật giáo Trung Quốc, điều này cũng cho thấy là các bài tụng bằng tiếng Việt cũng đã được chuyển âm từ các bản tụng tiếng Hán với âm vận tiếng Phạn gọi là Fanbei/Phạm bái này).

Nhằm giải thích các đặc tính của âm nhạc Phật giáo Trung Quốc, tư liệu của các đại tự viện cho biết rằng: “Các bài tụng theo truyền thống Ấn Độ mang mục đích giảng dạy Đạo Pháp/Dharma được gọi là “bei” (呗/tụng). Các bài tụng các kinh sutra thì gọi là “zhuandu” (轉讀/chuyển đọc, có nghĩa là không diễn nghĩa mà chỉ xướng đọc theo cách dịch âm) tức là chỉ xướng lên âm điệu (chanting). Nếu mang ra để tụng tập thể thì các bài này sẽ được gọi chung là fanbei” (梵呗/phạm bái, Phạm ở đây có nghĩa lả tiếng Phạn, bái có nghĩa là tụng. Phạm bái có nghĩa là tụng bằng tiếng Phạn). Nguồn gốc của cách tụng này có thể đã phát sinh từ thời đại Đức Phật (điều này không có gì là chắc chắn cả. Giáo Huấn nguyên thủy của Đức Phật không phải là một hệ thống tín ngưỡng mang tính cách cầu xin và tụng niệm như trường hợp của các đạo Veda/Vệ-đà và Bà-la-môn. Hơn nữa vào thời đại của Đức Phật chỉ có tiếng Phạn cổ được gọi là tiếng Phạn Vệ-đà dùng để chuyển tải các kinh của đạo Vệ-đà và Bà-la-môn. Tiếng Phạn cải tiến dùng để ghi chép kinh sách Đại Thừa sau này xuất hiện rất muộn vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây Lịch dưới triều đại của vua Azoka/A-dục). Ngoài ra vào các thời đại xa xưa của Ấn Độ cũng có các bài tụng rất phổ thông gọi là các bài kinh Veda (tức là các bài tụng mang tính cách cầu khẩn của đạo Vệ-đà). Các bài tụng Phật giáo được dựa vào các mẫu mực trong toán học Ấn độ, tức là một trong “năm ngành khoa học” của nền văn minh Ấn Độ (trong đoạn này tác giả đi quá xa, nếu không thì cũng quá vắn tắt, không đưa ra một chi tiết nào để chứng minh cả). Các bài tụng niệm Phật giáo theo thể loại này được gọi chung là “các bài tụng cao quý” (noble chanting).

Nhiều vị hoàng đế thời Nam-Bắc triều (420-589) từng thay nhau phát huy tích cực âm nhạc Phật giáo. Chẳng hạn như Hoàng đế Wu (Wudi/梁武帝/ Lương Vũ Đế, 464-548) thuộc triều đại Liang (nhà Lương hay Lương triều/梁朝, 502-557) là một Phật tử thuần thành rất say mê âm nhạc Phật giáo, từng viết nhiều bài nhạc nổi tiếng chẳng hạn như các bài: “Đại hỷ lạc” (Great Joy), “Con đường đưa đến Cực Lạc” (Heavently Way), “Ngăn chặn thảm họa và sai lầm” (Cessation of Evil and Wrongdoing) và “Làm cho bánh xe khổ đau phải dừng lại” (Stopping the Wheel of Suffering). Dù rằng mục đích của các bài hát này lúc đầu khi mới được sáng tác chỉ là để sử dụng vào việc giáo huấn, thế nhưng nhạc tính rất cao nên sau đó được xem như các sáng tác nghệ thuật xuất sắc. Ông cũng là người đầu tiên có sáng kiến thành lập các ban hợp ca thiếu nhi Phật giáo với các bài hát như “Thiếu nhi ca đón mừng Đạo Pháp/Dharma” (Children’s joy of the Dharma Song), và các bài khác chuyển âm từ tiếng Phạn gọi chung là “Các bài tụng Fanbei dành cho Thiếu Nhi” (Children’s Fanbei). Ngoài ra Vũ Đế còn bày ra ngày lễ Wuzhe dahui (無遮大會/Vô già đại hội) còn gọi là lễ Vu Lan (Ullambana Festival/Vu Lan Bồn Hội, tức là “Lễ cúng cô hồn” vào ngày rằm tháng bảy. Lễ này do Vũ Đế bày ra năm 538. Ullambana cũng là tên của một bài kinh Đại Thừa nêu cao lòng hiếu thảo). Chính ông cũng đã mượn lễ này để tự sám hối và ông cũng là người đầu tiên đưa các bài tụng Phật giáo vào các nghi thức của lễ Vu Lan. Công trình quan trọng hơn cả mà ông đã thực hiện được là đưa âm nhạc truyền thống của Trung Quốc vào âm nhạc Phật giáo.

Một số các công trình cải tiến quan trọng nhất về lời hát và âm nhạc Phật giáo đã được thực hiện vào thời kỳ Nam Bắc triều và giai đoạn đầu của triều đại nhà Đường. Chùa chiền thuộc tông phái Tịnh Độ từng sáng tác nhiều bài tụng và nguyện cầu có giá trị cao có thể ghép chung với các Tạng kinh Phật giáo (điều này dường như đi quá xa, phải chăng là một xu hướng muốn biến Giáo Huấn của Đức Phật trở thành tín ngưỡng của Trung Quốc?). Cũng trong khoảng thời gian này vị Thầy Huiyuan (慧遠/Huệ Viễn, 334-416) tại núi Lu (廬山/Lư Sơn, tỉnh Giang Tây) cũng từng là người đầu tiên sử dụng âm nhạc để giảng dạy Đạo Pháp và quảng bá Phật giáo.

Gần đây hơn, một tập nhạc đồ sộ sáng tác dưới triều đại nhà Đường đã được khám phá trong động Đôn Hoàng tại Trung Quốc. Các bài tụng này lúc đầu được dùng để diễn giải các kinh sutra (tức các kinh Đại Thừa bằng tiếng Phạn), nhưng sau đó được chuyển sang các “ngôn ngữ địa phương” và được xem như các bài tụng Phật giáo đầu tiên vay mượn các giai điệu của các bài hát dân gian Trung Quốc. Các sáng tác này tạo ra các giai điệu hoàn toàn mới mẻ cho các bài nguyện cầu và các bài tụng. Ngoài ra các bản ghi chép các bài hát tìm thấy trong động Đôn Hoàng trên đây còn cho thấy một cách viết nhạc dựa vào một hệ thống ký hiệu mới mẻ mà trước đó chưa hề thấy (rất tiếc tác giả không cho biết thêm một vài chi tiết về các ký hiệu này). Trước khi triều đại nhà Đường chấm dứt, âm nhạc Phật giáo đã hoàn toàn mang các đường nét Trung Quốc và đạt được một mức độ phát triển chưa từng thấy.

Sau đó, dưới triều đại nhà Nguyên (1279-1368), các nhạc sĩ Phật giáo có khuynh hướng vay mượn các giai điệu trong một tập nhạc nổi tiếng mang tựa “Các bản nhạc trước tác dưới thời kỳ Nam Bắc triều” (thế kỷ thứ V và VI). Sau đó dưới triều đại nhà Minh (thế kỷ XIV-XVII) chùa chiền đã chọn được khoảng hơn 300 giai điệu dân gian và chép vào 50 cuộn giấy (thời bấy giờ các văn bản và kinh sách thường được ghi chép trên các tờ giấy thật dài và cuộn lại, nhưng không đóng thành sách như ngày nay) và gọi chung là “Các bài hát tôn vinh hồng danh của tất cả chư Phật và chư Bồ-tát” (Songs proclaming of Titles of All the Honorable Buddhas and Bodhisattvas). Một số các giai điệu dân gian hay nhất thời bấy giờ đã được vay mượn để chuyển thành âm nhạc Phật giáo. Chẳng hạn như dưới thời nhà Tống (960-1270) bài hát Phật giáo “Tiếng hát tâm linh” (A Spiritual Song) đã được sáng tác bằng cách vay mượn giai điệu của bài hát “Bướm Hoa” (A Butterfly Falls in Love with a Flower). Ngoài ra các điệu hát dân gian cũng thường được sử dụng để quảng bá Phật giáo, nhờ đó âm nhạc Phật giáo đã trở nên phổ biến trong quảng đại quần chúng. Dầu sao thì âm nhạc Phật giáo dường như vẫn chưa tạo được cho mình các đường nét đặc thù và sáng tạo, vẫn tiếp tục bám chặt vào các khuôn mẫu bảo thủ.

Sau khi nước Cộng Hòa Trung Quốc được thành lập năm 1912 (cách mạng lật đổ nhà Thanh, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ Trung Quốc), âm nhạc Phật giáo dần dần mất hết ảnh hưởng trong quảng đại quần chúng. Chỉ thấy một vài tu viện hiếm hoi tiếp tục sáng tác thêm các bài hát mới. Tuy thế năm 1930 tại Trường Phật giáo Minnan (Minnan Buddhist Seminary, được thành lập năm 1935 do sáng kiến của nhà sư Thái Hư) hai nhà sư Taixu (tức nhà Thái Hư, đã nói đến trên đây) và Hongyi (弘一/Hoằng Nhất,1880-1942) cũng đã sáng tác được một bài nổi tiếng là “Bài hát ngợi ca Tam Bảo” và kêu gọi tất cả Phật tử hãy ra sức bảo toàn và lưu truyền gia tài âm nhạc Phật giáo. Vị Thầy Taixu/Thái Hư nghiệm thấy âm nhạc Phật giáo là một phương tiện hữu hiệu để xiển dương Đạo Pháp, và quả quyết rằng nếu biết sử dụng nó để quảng bá Đạo Pháp/Dharma thì nhất định nó sẽ góp phần mang lại nhiều phong phú và đa dạng cho việc giảng dạy. Vị Thầy hợp tác với ông là Hongyi/Hoằng Nhất trước khi xuất gia từng là một nhạc sĩ lão luyện được nhiều người mến mộ. Mười trong số các bài hát Phật giáo mang tính cách dân gian của ông đã được chọn để thực hiện một đĩa nhạc (album) mang tựa là “Qingliang Collection” (Qingliang/清涼/Thanh Lương, có nghĩa là sự Trong Lành). Tuy thế thời bấy giờ không mấy người may mắn được biết đến âm nhạc Phật giáo, tình trạng xã hội này đã bóp nghẹt cả một nền âm nhạc đại chúng.

Trong các năm gần đây hơn, các bài hát và bài tụng fanbei (phiên âm từ tiếng Phạn) tương đối được phép phổ biến rộng rãi hơn, nhờ đó đã làm bùng lên cả một phong trào âm nhạc Phật giáo. Quả là một dấu hiệu khích lệ sau nhiều thế kỷ im lìm (phải chăng tác giả muốn nói là “nhiều thập niên” thay vì là “nhiều thế kỷ”?). Trong khoảng thập niên 1950, với sự góp sức của các nhạc sĩ như Yang Yonpu, Li Zhonghe và Wu Juche, nhiều chùa chiền tỏ ra tích cực hơn trong việc sáng tác các bài hát mới. Một tập nhạc gộp chung một số các bài hát này mang tựa Phật Quang Ca (Fo Guang Hymns) đã được tổ chức Phật Quang Sơn (Fo Guang Shan) phát hành và phổ biến. Các cố gắng trên đây đã thúc đẩy nhiều người tham gia vào lĩnh vực này.

Năm 1957 dưới sự chỉ đạo của tôi, “Ban Hợp Ca Thiếu Nhi Phật giáo Ilan” (Ilan Buddhist Chanting Association’s Youth Choir) đã thực hiện thêm được nhiều tập nhạc khác. Chúng tôi phát hành được sáu tập, gồm chung hơn hai mươi bài. Đây là lần đầu tiên một công trình như thế đã được thực hiện trong vòng sinh hoạt của các Phật tử, và đã mở ra một kỷ nguyên mới trên dòng lịch sử phát triển của âm nhạc Phật giáo. Tuy nhiên cũng có nhiều chức sắc Phật giáo không đồng tình với các nỗ lực này. Dù bị chỉ trích nhưng tôi vẫn tin rằng các công trình trên đây thật quan trọng đối với việc phổ biến Phật giáo, do đó tôi không hề nao núng trước những sự chỉ trích đó. Sự kiên trì đã mang lại cho tôi một phần thưởng xứng đáng, năm 1979, 1990, 1992 và 1995, ban hợp ca của chúng tôi được mời trình diễn tại Giảng đường Tôn Dật Tiên (Sun Yat-Sen Memorial Hall) và Thính đường Quốc gia tại Đài Bắc (Taipei’s National Concert Hall). Các buổi trình diễn này được kèm thêm vũ điệu, các bài nhạc cổ truyền và các bài hát ngợi ca Đạo Pháp/Dharma, đã đánh dấu lần đầu tiên các bài tụng Phật giáo được trình diễn tại các nơi công cộng tại Đài Loan. Ngoài ra một buổi trình diễn mang chủ đề: “Các bài hát và vũ điệu tôn vinh chư Phật Mười Phương” (Paying Homage to the Buddhas of the ten Directions: Buddhist Song and Dance) đã được thực hiện trong một dịp lễ hội về nghệ thuật cổ truyền tại Đài Bắc. Đây cũng là lần đầu tiên các bài tụng Phật giáo fanbei (tức các bài tụng dịch âm từ tiếng Phạn) được trình diễn chung với âm nhạc hiện đại Tây Phương, và cả âm nhạc cổ truyền Trung Quốc, cùng các vũ điệu. Các cố gắng này đã mang lại cho âm nhạc Phật giáo một chỗ đứng trong xã hội, và cũng đã được tất cả các tông phái và học phái Phật giáo tán đồng và khen thưởng.

(còn tiếp).

Hòa thượng Tinh Vân (Hsing Yun)

Nguồn: Phật giáo và âm nhạc